Suy niệm Lời Chúa

THỨ NĂM TUẦN THÁNH.


 

Thứ Năm: Ga 13, 1-15

Thứ Năm 06/04/2023 – Thánh Thể Bí Tích Phục Vụ

06/04 – THỨ NĂM TUẦN THÁNH. THÁNH LỄ TIỆC LY

"Ngài yêu thương họ đến cùng".

 

Lời Chúa: Ga 13, 1-15

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa.

Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu".

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".

 

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Lời Chúa: Xh 12, 1-8. 11-14; 1 Cr 11, 23-26 ; Ga 13, 1-15

 

MỤC LỤC

 

1. Phi ra chân cho nhau--Lm. Antôn Nguyn Cao Siêu SJ. PAGEREF _Toc130990919 \h 2

2. Yêu thương cho đến cùng--TGM. Giuse Ngô Quang Kit PAGEREF _Toc130990920 \h 3

3. Mình Thánh Chúa, món quà quý giá cho nhân loi--TGM Giuse Nguyn Năng. PAGEREF _Toc130990921 \h 4

4. Yêu là trao ban--Lm Giuse Đinh Lp Lim.. PAGEREF _Toc130990922 \h 5

5. Chúa Giêsu ra chân cho các môn đệ--Lm. Carôlô H Bc Xái PAGEREF _Toc130990923 \h 7

6. Ba tic Vượt qua-- Si ch đỏ--Lm. Carôlô H Bc Xái PAGEREF _Toc130990924 \h 8

7. Gii lut yêu thương--Lm. Giuse Đinh Tt Quý PAGEREF _Toc130990925 \h 10

8. Bài hc ra chân (Ga 13,1 – 15)--Lm Giuse Đinh Tt Quý PAGEREF _Toc130990926 \h 11

9. Hãy yêu thương như Thy--Lm. Đan Vinh. PAGEREF _Toc130990927 \h 12

10. Du hiu ca mt tình yêu tuyt đỉnh--Lm. Đan Vinh. PAGEREF _Toc130990928 \h 13

11. Bí Tích Thánh Th--ÐTC Gioan Phaolô II PAGEREF _Toc130990929 \h 14

12. Tình yêu Chúa Giêsu di chúc--Lm. Nguyn Vinh Sơn SCJ. PAGEREF _Toc130990930 \h 15

13. Thánh Th Bí Tích Phc V. PAGEREF _Toc130990931 \h 16

14. Bí tích Thánh Th--‘Mi Ngày Mt Tin Vui’ PAGEREF _Toc130990932 \h 17

15. K vt tình yêu--Lm. Antôn Nguyn Văn Độ. PAGEREF _Toc130990933 \h 18

16. Sng yêu thương và phc v--Lm. Antôn Nguyn Văn Độ. PAGEREF _Toc130990934 \h 19

17. Thánh Th, thiên chc Linh mc, gii lut yêu thương--Lm. Antôn Nguyn Văn Độ. PAGEREF _Toc130990935 \h 20

18. K vt tình yêu--Lm. Antôn Nguyn Văn Độ. PAGEREF _Toc130990936 \h 22

19. Thánh L Tic Ly-- Lm. Antôn Nguyn Văn Độ. PAGEREF _Toc130990937 \h 23

20. Đôi tay biu tượng tình yêu--Lm. Giuse T Duy Tuyn. PAGEREF _Toc130990938 \h 24

21. Tình yêu hiến dâng-- Lm. Giuse T Duy Tuyn. PAGEREF _Toc130990939 \h 25

22. Th Năm tun thánh--Lm. Giuse Trc. PAGEREF _Toc130990940 \h 26

23. D tic ân tình--Trm Thiên Thu. PAGEREF _Toc130990941 \h 26

24. Đỉnh cao ca mu nhim cu độ là tình yêu--Jos. Vinc. Ngc Bin. PAGEREF _Toc130990942 \h 29

25. Vì yêu, nên chp nhn tt c--Jos. Vinc. Ngc Bin. PAGEREF _Toc130990943 \h 31

26. Ra Chân-- Lm. Giuse T Xuân Hòa. PAGEREF _Toc130990944 \h 32

27. Suy nim th Năm Tun Thánh--Lm. Anthony Trung Thành. PAGEREF _Toc130990945 \h 33

28. Suy nim th Năm Tun Thánh--Lm Andre Bé, GPVL.. PAGEREF _Toc130990946 \h 35

29. S vô cm đến nhn tâm ca con người--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí PAGEREF _Toc130990947 \h 36

30. Lòng thương xót ta sáng--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí PAGEREF _Toc130990948 \h 37

31. Lòng thương xót ta sáng--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí PAGEREF _Toc130990949 \h 39

32. Th Năm Tun Thánh—Lm. Giuse Phm Đình Ngc SJ. PAGEREF _Toc130990950 \h 41

33. Nhng cuc chia ly nhiu lưu luyến-- Truyn thông HĐGMVN—Lm. Giuse Phm Đình Ngc SJ. PAGEREF _Toc130990951 \h 42

34. Nghi l ra chân trong phng v th Năm Tun Thánh được thành hình như thế nào?-- Đức Ông Phanxicô Borgia Trn Văn Kh. PAGEREF _Toc130990952 \h 43

35. Phép Thánh Th do Chúa Giêsu lp--Lm Emmanuen Nguyn Vinh Gioang. PAGEREF _Toc130990953 \h 45

36. Th Năm Tun Thánh: Chuyn l có tht!-- Lm. Ansgar Phm Tĩnh. PAGEREF _Toc130990954 \h 47

37. Gii Nghĩa Yêu-- Ga 13, 1-15-- Lm Inhaxiô Trn Ngà PAGEREF _Toc130990955 \h 48

38. Ý nghĩa ngày Th Năm Tun Thánh. PAGEREF _Toc130990956 \h 49

39. Anh em hãy làm vic này mà nh đến Thày--Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa. PAGEREF _Toc130990957 \h 51

40. Bánh không men--JB. Lam Thy. PAGEREF _Toc130990958 \h 51

41. Tic ly, ba tic cu độ--Lm. Giuse Nguyn Thành Long. PAGEREF _Toc130990959 \h 54

42. li trong tình yêu ca Thy--Lm. JB. Nguyn Minh Hùng. PAGEREF _Toc130990960 \h 55

43. Yêu thương đến cùng--Lm. Gioan Nguyn Văn Ty. PAGEREF _Toc130990961 \h 56

 

 

1. Phải rửa chân cho nhau--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.

Người biết mình sắp qua đời thường để lại di chúc cho con cái.

Di chúc nói lên ước nguyện, lời nhắn nhủ hay lệnh truyền của người sắp ra đi.

Có thể nói Thầy Giêsu khi biết cuộc Khổ Nạn gần đến

cũng đã để lại một di chúc kép cho các môn đệ dấu yêu:

Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và nhất là Ngài đã lập bí tích Thánh Thể.

Thứ Năm Tuần Thánh là ngày chúng ta đặc biệt nhớ đến di chúc ấy.

Sống di chúc của Chúa Giêsu là cách biểu lộ tình yêu đối với Ngài.

Có nhiều điểm giống nhau nơi việc Rửa chân và lập Bí tích Thánh Thể.

Cả hai đều là những cử chỉ Thầy Giêsu làm lúc cận kề cái chết.

Cả hai đều được làm trong bầu khí một bữa ăn tối gần lễ Vượt Qua.

Vào lúc cuối đời, sau bao năm tận tụy với sứ mạng phục vụ,

Thầy Giêsu muốn gói ghém trong hai cử chỉ đơn giản ấy lễ hiến dâng đời mình.

Cả hai đều tượng trưng cho cái chết tự hạ trên thập giá.

Rửa chân đòi Thầy phải cúi xuống rất sâu, phải trở thành tôi tớ phục vụ.

Rửa chân là điều mà tôi tớ không hẳn phải làm cho chủ,

thì bây giờ Thầy làm cho trò.

Cái chết trên thập giá là sự phục vụ cao nhất được diễn tả qua việc rửa chân.

Bí tích Thánh Thể còn diễn tả cách tuyệt vời hơn cái chết hy sinh ấy.

Trong bí tích này, tấm bánh trở nên Mình Thầy bị bẻ ra và trao đi.

Rượu trở nên Máu Thầy, Máu sẽ bị đổ ra cho muôn người trên thế giới.

Trong cả hai biến cố Rửa chân và Bí tích Thánh Thể,

Thầy Giêsu đều mời các môn đệ tham dự cách tích cực.

Tham dự vào cái chết của Thầy bằng cách để cho Thầy rửa chân,

hay tham dự bằng cách ăn uống Mình và Máu Ngài.

Hai biến cố trên không phải là chuyện chỉ xảy ra một lần bởi Thầy Giêsu.

Thầy mời các môn đệ cũng làm như Thầy, và lặp đi lặp lại những cử chỉ đó.

“Anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14).

“Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy (Lc 22, 19).

Cúi xuống phục vụ tha nhân và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể

sẽ giúp chúng ta tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu.

Muốn ở lại trong tình thương của Thầy Giêsu,

cần giữ lệnh Thầy truyền (Ga 15, 10).

Mà “đây là lệnh truyền của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau

như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).

Hơn nữa, Thầy Giêsu còn cho ta một cách khác để ở lại trong Thầy:

Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi,

và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).

Thứ Năm Tuần Thánh là ngày lễ của Tình Yêu theo đúng nghĩa nhất.

Yêu là cúi xuống phục vụ, yêu là bẻ đời mình cho tha nhân như Thầy Giêsu.

Ước gì chúng ta được ở lại trong tình yêu của Giêsu nhờ biết yêu.

 

Cầu nguyện:

Lạy Thầy Giêsu,

khi Thầy rửa chân cho các môn đệ

chúng con hiểu rằng

Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.

Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng

khi Thầy bưng chậu nước,

bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,

khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình

để rửa chân rồi lau chân cho họ.

Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ

và gọi tên từng người.

Giây phút được rửa chân

là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,

thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.

Chúng con vẫn xâu xé nhau

chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.

Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.

Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi

bất chấp lương tri và lẽ phải.

Khi nhìn Thầy rửa chân,

chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.

Không phải là ban bố như một ân nhân,

nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.

Từ khi Thầy cúi xuống

rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,

chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.

Lạy Thầy Giêsu,

Thầy để lại cho chúng con

một di chúc bằng hành động.

Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,

để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.

Xin cho chúng con thấy

Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,

để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống

trên đời những ai khổ đau bất hạnh.

 

2. Yêu thương cho đến cùng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Tin mừng theo thánh Gioan không tường thuật việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể, nhưng lại tường thuật việc Chúa rửa chân. Điều đó cho thấy việc rửa chân có một tầm vóc rất quan trọng. Theo thánh Gioan việc rửa chân nói lên tình yêu đến tận cùng của Chúa Giêsu. Chiêm ngắm việc Chúa rửa chân cho các Tông đồ, ta có thể thấy có 3 cuộc thanh tẩy.

Thanh tẩy thể lý. Rửa chân là việc mỗi người phải làm hằng ngày. Bàn chân là vị trí thấp nhất trong cơ thể nên dễ bị nhiễm bẩn và vì thế cần được rửa ráy nhiều nhất. Nhưng cũng vì thế mà rửa chân là công việc tầm thường nhất, đây là công việc của người đầy tớ. Hôm nay Chúa Giêsu tự nguyện đảm nhiệm công việc của đầy tớ. Chúa bắt đầu bằng cởi áo choàng. Áo choàng tượng trưng cho địa vị cao cả, cho phẩm giá con người. Khi cởi áo choàng, Chúa cởi bỏ địa vị làm Chủ, làm Thầy, làm Chúa để làm đầy tớ cho các môn đệ. Chúa lấy khăn thắt lưng. Thắt lưng là thái độ của người lao động, buộc áo cho gọn gàng để việc phục vụ nhanh nhẹn hữu hiệu hơn. Chúa bưng chậu nước. Đây là thái độ của người đầy tớ phục vụ. Và đến rửa chân cho từng môn đệ. Rửa chân nói lên cử chỉ chăm sóc yêu thương. Vì yêu thương nên khiêm nhường hạ mình chăm sóc phần thấp hèn nhất của cơ thể.

Tuy việc rửa chân có ý nghĩa yêu thương phục vụ, nhưng với Chúa Giêsu và trong bữa Tiệc Ly, việc rửa chân còn mang ý nghĩa cao sâu hơn vì nhằm thanh tẩy tâm hồn.

Thanh tẩy tâm hồn. Khi nói với Phêrô: “Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu”, Chúa Giêsu có ý nói đến việc thanh tẩy tâm hồn các tông đồ khi rửa chân cho các ngài. Bữa Tiệc ly là bữa tiệc Vượt Qua mới. Để tham dự bữa tiệc Vượt Qua cũ, người Do Thái buộc phải tẩy rửa thân xác cho thanh sạch, dù trong tiệc Vượt Qua cũ, người Do Thái chỉ tưởng niệm một biến cố đã qua và ăn thịt con chiên một tuổi vô tì tích. Vì thế khi tham dự tiệc Vượt Qua mới, ta càng cần thanh tẩy tâm hồn cho thanh sạch vì ta được gặp gỡ trực tiếp Chúa Giêsu Thánh Thể và được lãnh nhận Con Chiên Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, vô cùng tinh tuyền.

Nhưng đi xa hơn nữa, Chúa còn muốn qua cuộc rửa chân này, thanh tẩy toàn diện cuộc đời các tông đồ.

Thanh tẩy cuộc sống. Bữa Tiệc Ly tiên báo cái chết của Chúa. Phép Thánh Thể là lễ hi sinh trên thánh giá. Việc cởi áo tiên báo Chúa Giêsu sẽ bị lột áo. Việc thắt lưng tiên báo Chúa bị bắt và bị giết. Nước rửa tiên báo nước và máu từ cạnh sườn Chúa đổ xuống. Thật vậy chẳng có nước nào thanh tẩy được con người nếu không phải là nước và máu tuôn ra từ Trái Tim của Chúa. Cái chết của Chúa chính là phép rửa mà Chúa đã nói trước: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đên khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 50). Như thế, Chúa Giêsu dùng chính cái chết của mình để rửa chân cho các tông đồ, để thanh tẩy các tông đồ và để biến đổi đời sống của các ông. Đây quả là một tình yêu cho đến tận cùng, yêu thương nên phục vụ đến hiến cả mạng sống.

Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu mời gọi các ông: Như Thầy đã rửa chân cho anh em, anh em cũng hãy rửa chân cho nhau. Để rửa chân, phải quì xuống. Thế giới hôm nay tràn đầy sự kiêu hãnh, hợm mình và muốn chèn ép người khác để nâng mình lên. Người môn đệ hãy noi gương Chúa từ bỏ chính mình, tự hạ mình, quì gối khiêm nhường phục vụ. Để rửa chân, phải cởi bỏ áo ngoài. Thế giới hôm nay muốn tô điểm mình bằng đủ mọi thứ hình thức vỏ bọc bên ngoài. Người môn đệ phải theo gương Chúa cởi bỏ áo choàng, cởi bỏ hết những gì giả tạo bên ngoài, khiêm nhường sống với con người thực của mình. Để rửa chân phải lấy khăn thắt lưng. Thế giới hôm nay thường muốn trói buộc người khác và tự buông thả chính mình. Người môn đệ Chúa hãy biết thắt lưng, tự chế bản thân. Để chân sạch, phải lau sau khi rửa. Thế giới hôm nay thường đổ lỗi cho người khác. Người môn đệ hãy biết noi gương Chúa, lau sạch lỗi lầm của anh em, nhận lấy lỗi lầm của anh em và đeo vào thắt lưng, đảm nhận những yếu đuối của anh em.

Khi rửa chân, Chúa nói với thánh Phê rô: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”. Lời này làm ta nhớ lại khi hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin được ngồi bên tả và bên hữu, Chúa đã hỏi: “Các con có thể uống chén ta sắp uống và chịu phép rửa ta sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Hôm nay Chúa muốn rửa chân cho các tông đồ để các ngài được “chung phần với Chúa”. Chung phần cao nhất là cùng uống chén Chúa sắp uống và chịu phép rửa Chúa sắp chịu nghĩa là cùng chết với Chúa, chết cho con người tội lỗi, chết cho đời sống xác thịt, chết cho trần gian, để sống một đời sống mới của con người mới thánh thiện, theo thần khí trong cuộc sống cho Nước Trời.

Chung phần như thế là một vinh dự lớn lao. Chung phần như thế là được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ thế giới.

 

3. Mình Thánh Chúa, món quà quý giá cho nhân loại--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Chúa đã ban quà cho nhân loại bằng chính Mình Thánh Chúa. Biết ơn Chúa, chúng ta phải trân trọng hưởng dùng và sống bác ái như Chúa đã làm gương.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nếu ai đó nói con không có đức tin, con sẽ cự lại ngay. Thật ra con có đức tin đó nhưng còn yếu kém lắm. Yếu kém nên con chưa nhận ra phép lạ Chúa hằng quảng đại thực hiện trên các bàn thờ trong mỗi thánh lễ: biến bánh rượu thành Mình Máu Thánh Chúa. Chẳng ai nói một lời mà biến hóa cái này thành cái khác. Thế mà nhờ quyền năng Chúa, vị linh mục phán một lời thì bánh rượu trở nên Mình Thánh Chúa.

Con chưa đủ tin nên con chưa cảm thấy hứng khởi khi tham dự thánh lễ, không cảm thấy khao khát được rước Mình Thánh Chúa, và nhất là không sốt sắng cám ơn Chúa khi Chúa đang ngự trong lòng con qua bí tích Thánh Thể.

Con hăm hở làm việc cật lực cả ngày để kiếm tiền nuôi thân xác. Thế nhưng con thường có cảm giác mất giờ khi đi tham dự thánh lễ. Thời giờ con dành để tôn thờ Chúa và mưu ích cho linh hồn có đáng gì đâu so với thời giờ con lo cho thân xác. Vậy mà con hay so đo tính toán. Rõ ràng con còn yếu kém lòng tin. Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho con. Xin Chúa nâng đỡ tính xác thịt vốn yếu hèn của con. Xin cho con được cảm thấy sự an ủi của Chúa, được hưởng nếm sự bình an khi con có Chúa ở với con nhờ bí tích Thánh Thể.

Xin cho con biết cám ơn Chúa hằng ngày bằng cả ngày sống của con. Nhờ được kết hiệp với Chúa và được hưởng trọn tình yêu của Chúa, xin cho con biết sống hiệp nhất với tha nhân và chia sẻ tình yêu của con chan hòa đến cho mọi người. Amen.

Ghi nhớ: ”Ngài yêu thương họ đến cùng”.

 

 

4. Yêu là trao ban--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Thánh Gioan nói: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,10), Ngài là nguồn gốc tình yêu nên Ngài ban cho ta có tình yêu để yêu Ngài và yêu nhau. Chính vì thế Ngài nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Đây là giới răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12).

Không ai có thể định nghĩa được tình yêu mà chỉ để cho con tim cảm nghiệm được nó. Hoặc có theo định nghĩa thần học thì yêu là “diffusivum sui boni”: thông ban sự tốt lành của mình cho người khác; do đó, ta sẽ dễ hiểu được lời của thánh Gioan tông đồ: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3,16)

I. TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA.

Thánh Gioan tông đồ khẳng định rằng Thiên Chúa là tình yêu nên mọi tình yêu phải bắt nguồn từ Ngài và cũng phải qui hướng về Ngài như một nguồn suối duy nhất. Nếu tình yêu của chúng ta bắt nguồn từ Ngài thì chúng ta cũng phải yêu Ngài. Chính vì thế Ngài nói: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi và hãy yêu anh em như chính mình”(Mt 28,37.39). Ngoài ra, Chúa Giêsu còn nhắc nhở tình yêu này cách rõ ràng và mạnh mẽ hơn: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,24; 15,12).

Trong tuần thánh này và hôm nay chúng ta hãy về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người trong công cuộc cứu chuộc này. Tình yêu ấy đã được thánh Gioan tông đồ ghi lại trong Tin Mừng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người xuống trần gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).

II. TÌNH YÊU CỦA ĐỨC KITÔ.

Nếu đọc đoạn thư của thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Philipphê, chúng ta mới thấy Đức Giêsu yêu thương chúng ta đến mức nào: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết giữ lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa mà lại trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa, lại còn mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống người phàm như chúng ta. Hơn nữa, Ngài còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và còn muốn nhận lấy cái chết ô nhục trên thập giá” (Pl 2,6-11).

Ta thử hỏi: vì lý do nào mà Chúa đã xuống thế làm người chịu chết chuộc tội cho chúng ta?  Có lẽ không có câu trả lời nào khác mà chỉ có thể nói vì yêu thương chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).

Ngoài ra, như người ta thường nói: “yêu nhau thì muốn kết hợp với nhau”. Đức Giêsu vì yêu chúng ta, không những Ngài đã hy sinh chết trên thập giá mà còn muốn ở cùng ta mọi ngày cho đến tận thế, cho nên Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể.

III. THÁNH THỂ, BÍ TÍCH CỦA TÌNH YÊU.

Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi cho tín hữu Corintô nói: “Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con: các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,23). Chúa Giêsu đã biến mình máu Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Ngài chỉ có thể ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế trong bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện trong phép Thánh Thể không phải là sự hiện diện tượng trưng nhưng là sự hiện diện thực sự với mình máu, với cả nhân tính và thần tính của Ngài.

Động cơ nào đã thúc đẩy Đức Giêsu hành động như vậy?  Đó là tình yêu! Đức Giêsu đã yêu chúng ta hết mức, Ngài đã tự vắt cạn kiệt con người của Ngài để phục vụ người khác, không còn gì để mà cho nữa mà chỉ còn cách là biến chính thịt máu mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Đặc tính của tình yêu là muốn cho đi:

Yêu nhau cởi áo cho nhau,

Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay. (ca dao)

Cho đi là một sự mất mát, mất mát là một hy sinh, mà hy sinh là đau khổ, nhưng đau khổ vì tình yêu lại là một sự sung sướng vì đem lại niềm vui cho người mình yêu. Có một sự tương quan biện chứng giữa đau khổ và tình yêu, giữa mất và còn: hễ mất cái này thì còn cái khác. Điều kiện ắt có là hễ muốn còn cái này thì phải mất cái kia như hạt lúa phải thối đi để cho những bông lúa vàng nuôi sống con người. Con vật phải chết đi mới đem lại lương thực cho con người. Sự sống của con vật cũng như của thảo mộc phải mất đi để bảo đảm sự sống của con người.

Hy sinh cho người yêu những gì càng thiết yếu cho mình bao nhiêu thì quà tặng đó càng có giá trị. Thánh Têrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với chúng ta, thì đó mới thật là món quà”. Đức Giêsu không những đã trao ban mọi vinh quang trên trời, lại còn trao ban cả con người của Ngài thì món quà đó quí giá dường nào (x. Mt 26,26-28).

Truyện: Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình.

Trên bước đường lưu vong, trốn ra nước ngoài, Công tử Trùng Nhĩ và bọn bề tôi trải qua rất nhiều cam go, lầm than, đói khổ. Không tiền bạc, hết lương thực, bọn người này phải đi ăn xin.

Một hôm đói quá, đói đến lả người, cả bọn cơ hồ không còn đi được nữa. Trùng Nhĩ phải kiếm gốc cây có bóng mát gối đầu vào đùi Hồ Mao mà nằm. Bọn bề tôi bảo nhau đi bứt rau sam về luộc ăn. Trùng Nhĩ nuốt không trôi! Bỗng Giới tử Thôi mang một bát thịt nóng hổi đến dâng.

Trùng Nhĩ ăn ngon lành! Ăn xong, khỏe khoắn liền hỏi Giới tử Thôi:

- Nhà ngươi lấy đâu được thịt ngon như thế?

Giới tử Thôi chỉ vào đùi mình, thưa:

- Ấy là thịt đùi của tôi đó. Tôi nghe rằng: nguời hiếu tử bỏ thân thờ cha, người trung thần bỏ thân để thờ vua. Nay Công tử đói không có gì ăn nên tôi phải cắt thịt đùi dâng Công tử.

Trùng Nhĩ ứa nước mắt, nói:

- Ân này, biết bao giờ ta đáp được. (Thanh Lan Võ ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324-325)

IV. BÀI HỌC CHO TA.

về việc Chúa Giêsu lập Bí tich Thánh Thể để làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta và muốn ở với chúng ta hằng ngày cho đến tận thế trong phép Thánh Thể, chúng ta có thể rút ra được những bài học cụ thể để áp dụng vào đời sống hằng ngày.

1. Yêu là trao ban.

Một trong các  đặc tính của tình yêu là trao ban, là cho đi. Yêu thì không muốn giữ cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu: “Không khi nào người ta yêu như người ta đã được yêu, vì vậy muốn đạt được hạnh phúc trong tình ái, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì cả” (Paul Bourget).

Nếu tu viện trưởng Saint-Pierre quả quyết rằng: “Yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi chân lý, vương miện của mọi nhân đức căn cứ trên sự CHO và tha thứ” thì thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã thực hiện trong tình yêu đối với Chúa Giêsu trong mấy vần thơ do thánh nữ sáng tác:

Sống yêu đương chính là cho tất cả,

Trên đời này không đòi hỏi công lao.

Không tính toán, không kể cho là bao,

Vì đã yêu có khi nào suy tính. (Têrêsa Hài đồng)

2. Trao ban là hy sinh.

Tục ngữ Tây phương nói: “Partir c’est mourir un peu”: ra đi là chết trong lòng một ít. Lìa xa nhau là một sự hy sinh, hy sinh làm ta đau khổ, và đau khổ được coi như là chết trong lòng một ít. Vậy cho đi là cái gì đó phải lìa xa ta làm cho ta phải hy sinh, hay nói cách khác là chết trong lòng một ít. Tình yêu chân thật đòi hỏi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng cao như Pierre l’Ermite nói: “Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật”.

3. Trao ban là phục vụ.

Trao ban là cho đi, cho đi cái mình có và cái đó không còn thuộc về mình nữa mà thuộc về người khác. Như vậy, cho đi là chỉ nhằm phục vụ, phục vụ là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Chúng ta hãy nhìn lên ngọn nến lung linh trên bàn thờ. Cây nến phải hao mòn đi để trao ban ánh sáng và sức nóng cho con người. Nếu cây nến không chịu hao mòn đi thì không có ánh sáng mà không có ánh sáng thì không phục vụ cho con người được. Lúc đó cây nến chỉ còn là đồ trang hoàng chứ không cung cấp ánh sáng cho con người được.

4. Trao ban và cô đơn.

Yêu nhau thì người ta muốn gần nhau, muốn kết hợp với nhau để không bị cô đơn, nhiều khi phải bỏ tất cả để đi theo nhau. Theo nhau không phải chỉ chấp nhận một chủ thuyết, một chủ trương hay một khuynh hướng mà là muốn nối kết với nhau trong cuộc sống, bước theo nhau, coi người kia như lẽ sống của mình tựa như: ”thuyền theo lái, gái theo chồng” (Tục ngữ):

Yêu nhau chữ vị là vì,

Chữ dục là muốn chữ tùy là theo. (ca dao)

Saint-Exupéry nói: “Cho, tức là bắc một nhịp cầu trên sự cô đơn”. Tự bản thân, con người sống cô độc, khép kín vào bản ngã mình, giới hạn vào những kiến thức, rối ren trong những khó khăn của mình. Nếu xa cách tha nhân, hoặc không có ai tới nâng đỡ, thì lại càng cô đơn thêm.

Cho, tức là bắc cầu, là mở đường giao thông. Cho cái gì? Không nhất thiết phải cho tiền bạc, của cải vật chất bởi vì ai cũng có cái gì để cho. Chúng ta có thể cho “đôi mắt” khi thấy một cụ già đang bối rối muốn băng qua đường, ta biết giúp đỡ cụ. Chúng ta có thể cho một lời nói để khích lệ hay chia buồn, một lời cám ơn, một lời khen ngợi. Chúng ta có thể cho nhau một nụ cười thông cảm, một cử chỉ thân thiện... Thử lập một danh sách xem tôi đã cho những gì và đã nhận được nhừng gì nơi người khác.

Chúa Giêsu đã trao ban cho ta chính con người của Ngài trong phép Thánh Thể, Ngài không bao giờ cô đơn vì Ngài luôn luôn biết cho đi, cho đi một cách quảng đại, cho đi không có giới hạn, cho đi mãi mãi. Nhưng chúng ta không đáp lại sự cho đi của Ngài, chúng ta thờ ơ trước sự trao ban vô vị lợi của Ngài, làm cho Ngài phải cô đơn. Để tránh sự cô đơn của chúng ta đối với Chúa và với tha nhân, ta hãy biết cho đi bằng cách phục vụ Chúa trong tha nhân, càng cho đi thì càng gần Chúa, càng sống thân mật với Ngài vì “cho đi thì có phúc hơn là nhận” và nếu yêu mà chỉ nhận thì tình yêu sẽ chết.

mục lục

 

5. Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

A. Phân tích (Hạt giống...)

Chỉ một mình Thánh Gioan ghi lại cảnh Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Nhưng Gioan không chỉ tường thuật, mà còn chen vào những chi tiết rất có ý nghĩa:

- “Ngài yêu thương họ đến cùng”: đây là hành động biểu lộ tình thương.

- “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”: việc này làm có nhiều ý nghĩa sâu sắc.

- “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”: việc làm này còn có “phần” trong màu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu.

- “Nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì…”: đây là cung cách của người làm lớn.

- “Các con cũng phải rửa chân cho nhau”: việc làm này hàm chứa một lệnh truyền.

B. (...nẩy mầm)

1. Ta đã cảm nhận tình thương của Chúa Giêsu. “Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình…thì đã yêu thương đến cùng”. Cũng giống như một người mẹ sắp đi xa, còn làm gì được cho con cái thì tận dụng thời gian còn lại để làm, như quét căn phòng, vá chiếc áo, để sẵn thuốc uống bên cạnh giường con…và lặp đi lặp lại những lời dặn dò…

2. ”Tuy chúng con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”: ngay trong hàng ngũ các tông đồ mà còn có kẻ không sạch. Huống chi trong tập thể của chúng ta. Thái độ đối với người không sạch ấy phải thế nào? Chúa Giêsu không dạy lên án, khai trừ; nhưng dạy phải rửa. Dòng nước tẩy rửa thì nhẹ nhàng, ên ái chứ không gay gắt, nặng nề…

3. Khi tay chân giơ, ta làm gì? Tôi không chặt bỏ, nhưng rửa cho sạch. Bởi vì phần dơ đó là chi thể của ta. Cũng thế, ta sẽ không “chặt bỏ” nhưng nhẹ nhàng “rửa sạch” một người sai lỗi trong tập thể của ta nếu ta biết coi họ là tay chân, là chi thể cả ta.

4. Cha Doncoeur, khi giải thích một bức họa nhỏ trong tập thánh vịnh của Chantilly, đã diễn tã rất đúng ý nghĩa của hoạt cảnh này: “Hai tay (của Đức Kitô) đã khéo léo hành sự là lau chân Phêrô với chiếc khăn ở thắt lưng. Ngài đứng hơi nghiêng xuống như một người đầy tớ, vai trò Ngài muốn đóng lấy lúc bấy giờ. Điều quan trọng không phải là rửa chân, nhưng là phục vụ các môn đệ và phá đổ nơi họ cái tâm thức huênh hoang tự phụ vẫn chưa nhường bước chịu thua. Chúng ta hiểu tại sao mắt của họ như nói lên một nỗi bối rối, bởi lẽ trong họ một tấm kịch đang diễn ra” (Le Christ dans l’art francais, I, Paris,Plon, 1939, trang 104). Chúng ta sẽ không thể hiểu được cuộc khổ nạn trong Tin Mừng của Gioan nếu không hình dung ra tấm kịch này và nếu không nhớ tới sự đảo lộn đang diễn ra trong tâm hồn của Gioan cũng như Phêrô, gây nên bởi câu nói của Đức Giêsu: “Nếu Thầy không rửa chân con, thì con không có phần nào với Thầy”. Trong hoạt cảnh Đức Giêsu đã hạ giáng, đã bước xuống chỗ thấp nhất này, tất cả đều trái ngược với ý nghĩ mà xưa nay các ông có về Đấng Messia. Đến nỗi các ông thấy như bị thách đố. Cách đây không lâu, Gioan đã chẳng mưu tính với anh mình là Giacôbê để vận động cho hai người được cái vinh dự là ngồi bên Đức Giêsu trong ngày Ngài được quang vinh hay sao? Thế mà bây giờ Đấng là “Chúa và Thầy” của các ông đang ăn mặc như một nô lệ và đang phục vụ dưới chân các ông! Tệ hơn nữa, Ngài còn lấy đó làm quy luật cho các môn đệ: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để theo như Thầy đã làm như thế nào thì anh em cũng làm y như vậy” (13,15). Có lẽ cũng như Phêrô, “sau này” Gioan mới hiểu được điều đó (13,7). Như một bài học đã được ghi khắc bằng những nét giống như lửa vào trong tâm hồn tự cao tự đại này: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga4,8). Để giải cứu con người, Thiên Chúa đã hạ mình đến mức đó. Từ đây tất cả mọi sự đều thay đổi ý nghĩa: tự hạ trở thành “nâng cao”. Bước xuống chỗ thấp nhất là leo lên chỗ cao nhất. Tự huỷ của một tên nô lệ chính là sự siêu tôn Con Người (“Tìm hiểu Tin Mừng theo Thánh Gioan. Trang 177-178).

 

6. Bữa tiệc Vượt qua-- Sợi chỉ đỏ--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Bài đọc I: Lễ vượt qua đầu tiên của dân do thái.

Đáp ca: Lời nguyện tạ ơn sau bữa ăn vượt qua.

Bài đọc II: Bữa ăn vượt qua của các kitô hữu

Tin Mừng: Tường thuật bữa tiệc vượt qua của Chúa Giêsu với các môn đệ.

*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến.

Ba ngày Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh được gọi là Tam Nhật Vượt Qua và là đỉnh cao của năm phụng vụ. Thời gian cao điểm này bắt đầu bằng Thánh lễ chiều hôm nay, nhắc lại việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh thể và Chức Linh mục. Mỗi lần chúng ta dâng Thánh Lễ là chúng ta hiện tại hóa hy tế Thập giá, nhất là Thánh lễ chiều hôm nay.

Ngày xưa các tông đồ đã vây quanh Chúa Giêsu bên bàn Tiệc ly. Chiều nay chúng ta cũng thế. Chúng ta hãy có cùng một tâm tình, cùng một đức tin và cùng một lòng mến như các tông đồ để dâng Thánh lễ này.

*II. GỢI Ý SÁM HỐI

Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta tuyên xưng rằng “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết”. Nhưng chúng ta có dâng Thánh lễ với tâm tình của người chứng kiến cái chết đau đớn của Chúa Giêsu không ?

Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta tuyên xưng tiếp rằng “… và tuyên xưng việc Chúa sống lại”. Nhưng chúng ta có thực sự xác tín rằng Chúa đã sống lại và đang sống với chúng ta cách thân thiết trong Thánh Thể không ?

Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta còn tuyên xưng tiếp rằng “… cho tới khi Chúa lại đến”. Nhưng chúng ta có thực sự hợp tác với Chúa để biến đổi thế giới này trong khi chờ đợi ngày Chúa lại đến không ?

*III. LỜI CHÚA

*1. Bài đọc I: Xh 12,1-14

Hàng năm dân do thái vẫn kỷ niệm ngày họ được giải phóng khỏi ách nô lệ ai cập bằng một bữa tiệc gọi là Tiệc Vượt qua. Đoạn sách Xuất hành này ghi lại những quy định tỉ mỉ về việc chọn con chiên vượt qua và về những nghi thức trong bữa ăn đó.

Thánh lễ mà Chúa Giêsu lập làm cho bữa tiệc vượt qua thêm đầy đủ ý nghĩa: chính Chúa Giêsu là Con Chiên vượt qua, cái chết của Ngài đã giải thoát toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi.

*2. Đáp ca: Tv 115

Tv này là lời cầu nguyện sau bữa tiệc vượt qua. Tín hữu tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn lành đã lãnh nhận.

Lời nguyện tạ ơn này có được trọn vẹn ý nghĩa trong Thánh lễ, vốn được gọi là “Lễ Tạ ơn”.

*3. Tin Mừng: Ga 13,1-5

Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng Chúa Giêsu ăn với các môn đệ, Ngài đã rửa chân cho họ. Việc này có rất nhiều ý nghĩa:

Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ “đến cùng”, nghĩa là yêu thương cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời trần thế của Ngài, mà cũng là yêu thương đến mức không thể nào yêu thương hơn được nữa: Vì yêu thương Ngài đã hiến mình làm lương thực cho họ ; vì yêu thương, Ngài đã chịu chết cho họ.

Tình yêu thương phải được biểu lộ ra bằng hành động. Vì thế, Ngài không ngại quỳ xuống trước các môn đệ và rửa chân cho họ như một người đầy tớ quỳ xuống rửa chân cho chủ.

*4. Bài đọc II: 1 Cr 11,23-26

Có nhiều lệch lạc trong cộng đoàn Côrintô trong việc cử hành bữa tiệc vượt qua kitô giáo, tức là Thánh lễ. Thánh Phaolô viết đoạn thư này để nhắc các tín hữu ý nghĩa của Thánh lễ: Thánh lễ vừa là tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu, vừa là hiện tại hóa những ơn ích của cái chết đó. Vì thế ta phải dâng Thánh lễ với tâm tình yêu mến và biết ơn Chúa, đồng thời phải yêu thương đoàn kết với nhau.

*IV. GỢI Ý GIẢNG

*1. Những bài học từ bữa tiệc ly

Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu dạy các môn đệ mình những bài học sâu sắc bằng việc làm và lời nói của Ngài:

Bằng việc làm: Trước khi hiến thân chịu chết trên thập giá và trước khi hiến mình làm của ăn, Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. 3 việc làm này liên kết với nhau và đều dạy bài học phục vụ: phục vụ như Người Tôi tớ mà ngày xưa ngôn sứ Isaia đã tiên báo ; phục vụ cách khiêm tốn, phục vụ với tình yêu và phục vụ đến nỗi hy sinh bản thân mình.

Bằng lời nói: trong bầu khí thân mật của gia đình, Chúa dạy một điều răn mới. Điều răn này mới không phải ở nội dung (“chúng con hãy thương yêu nhau”) mà ở cách thức và mức độ thi hành (hãy yêu hương nhau “như Thầy yêu thương chúng con” ; “Thầy đã làm gương để chúng con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho chúng con”).

Cử hành Lễ Vượt qua với Chúa Giêsu trước hết là chấp nhận để cho Chúa Giêsu phục vụ chúng ta và yêu thương chúng ta. Có như thế chúng ta mới được thực sự rửa sạch, như lời Chúa Giêsu đã nói với Phêrô xưa.

Cử hành lễ Vượt qua với Chúa Giêsu còn là phải noi gương Ngài để trở thành người tôi tớ yêu thương và phục vụ những người khác theo cách của chính Chúa Giêsu.

*2. Hai chiều kích của bữa tiệc ly

Thánh lễ ngày nay là hiện tại hóa bữa tiệc ly đêm thứ năm tuần thánh đầu tiên. Nó có hai ý nghĩa chính:

Đó là một bữa ăn gia đình: mọi người cùng ngồi một bàn với nhau, cùng ăn những món chung nhau, cho nên phải đoàn kết yêu thương nhau. Đó là chiều ngang. Nhưng nếu chỉ lưu ý tới chiều ngang này thì Thánh lễ hầu như chỉ còn như một bữa giỗ.

Thánh lễ còn loan báo việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại và hiện tại hóa những ơn sủng dồi dào do việc Chúa Giêsu chết va sống lại ban cho loài người. Đó là chiều đứng.

Khi dâng Thánh lễ chúng ta phải để ý đến cả hai chiều kích ấy và phải có đủ cả hai tâm tình ấy: vừa liên kết với Chúa vừa liên kết với anh em. Sai lầm thường mắc phải là chỉ chú ý đến chiều kích này mà quên đi chiều kích kia.

*3. Rửa chân không phải chỉ là một việc vệ sinh

Phêrô không hiểu ý nghĩa việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, nên Chúa Giêsu nói “Việc Thầy làm, bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”.

Về sau, Phêrô đã hiểu gì ? Thưa hiểu rằng đó không phải chỉ là một việc làm vệ sinh, mà ý nghĩa còn sâu sắc hơn nhiều.

Khi tay chân mình dơ thì mình làm gì ? Chặt bỏ đi ư ? Không, không ai muốn chặt tay chặt chân mình bao giờ cho dù nó dơ bao nhiêu đi nữa. Nó dơ thì mình rửa cho sạch. Bởi vì nó là một phần của thân thể mình, một phần của sự sống mình.

Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, bời vì họ là anh em của Ngài (“Anh em như thể tay chân”). Ngài dạy chúng ta rửa chân cho nhau vì chúng ta cũng là anh em của nhau, tay chân của nhau.

Khi chúng ta chặt bỏ ai thì đó là dấu chúng ta không còn coi người đó là anh em của mình nữa. Chặt bỏ bằng kết án, khai trừ.

Còn nếu chúng ta vẫn còn coi người đó là anh em của mình thì dù người đó dơ bao nhiêu đi nữa, mình sẽ cố gắng rửa cho sạch.

Dòng nước tẩy rửa rất nhẹ nhàng, trong lành, êm ái…

*V. TRONG THÁNH LỄ

Trước kinh Lạy Cha: Mọi người chúng ta là anh em của nhau, Chúa Giêsu là anh cả, và Thiên Chúa là Cha. Trong tâm tình gia đình thân thiết, chúng ta hãy dâng lên Cha chúng ta lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy.

Trước lúc rước lễ: Thánh lễ hôm nay diễn lại đúng nghĩa nhất Thánh lễ đầu tiên của Chúa Giêsu trong đêm Thứ Năm tuần Thánh đầu tiên. Chúng ta hãy rước lễ sốt sắng như các tông đồ ngày xưa.

*VI. GIẢI TÁN

(Hôm nay không có)

 

7. Giới luật yêu thương--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Hôm nay là ngày Thứ năm Tuần Thánh, ngày Chúa Giêsu ngồi thật gần các môn đệ của Ngài để mừng lễ Vượt Qua cổ xưa của người Do Thái.

Chúng ta tham dự vào bữa tiệc hôm nay để tưởng niệm đến cái chết và sự Phục Sinh của Chúa.

A. Trong Thánh lễ hôm nay, Giáo Hội còn muốn chúng ta nhớ lại giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã đặc biệt trối lại như một lệnh truyền: ”Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

Chúa Giêsu đã chẳng có gia sản gì để trối lại cho các môn đệ của Ngài, nhưng Ngài lại để lại cho các môn đệ và những người đi theo Ngài một lời trối đặc biệt này. Đây là giới răn, là lệnh truyền chính Chúa nói ra cũng như đã thực hành trong phòng tiệc ly.

Ngài cũng không quên cho các môn đệ của Ngài biết lý do tại sao Ngài lại để lại cho họ giới răn yêu thương đó. Đó chính là vì Ngài đã yêu thương mọi người trước.

Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một điều hết sức lạ lùng.

Tiếc rằng, ngày hôm nay, nhiều người chưa thấy được điều đó. Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài muốn được gần gũi với con người: ”Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20)

Phần chúng ta, chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa là Đấng thật sự đang yêu thương mỗi một người trong chúng ta hay không? Ngài yêu thương con người một cách sâu sắc và thân mật còn hơn cả tình yêu của bất cứ người mẹ nào yêu thương con mình, hay như bất cứ người tình nào yêu người yêu của mình.

Chỉ khi nào chúng ta xác tín được như thế, thì chúng ta mới có thể đáp trả lại tình yêu Chúa đúng phép.

Khi Chúa Giêsu nói: ”Thầy ban cho anh em một điều răn mới: anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34). Đây không phải là một điều luật được áp đặt lên trên chúng ta từ bên ngoài, nhưng đây là phương thức giúp cho cuộc sống của chúng ta được tốt đẹp hơn, hài hòa hơn.

Thế giới này sẽ tốt đẹp biết bao nếu giới luật này được mọi người đưa ra thực hành. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi không còn chiến tranh, không còn bạo lực, không còn độc ác, không còn nô lệ. Lúc đó mọi người sẽ được giải thoát khỏi sự hận thù và tranh chấp.

B. Một điểm khác cần được đề cập tới trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay: Đó là việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Chỉ có một mình Thánh Gioan ghi lại cảnh này: Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ của Ngài.

Cha Doncoeur đã diễn tả thật khéo sự việc này như sau “Hai tay (của Đức Kitô) đã khéo léo lau khô hai bàn chân của Phêrô với chiếc khăn ở thắt lưng. Ngài đứng hơi nghiêng xuống như một người đầy tớ, vai trò Ngài muốn đóng lấy lúc bấy giờ. Điều quan trọng không phải là rửa chân, nhưng là phục vụ các môn đệ và phá đổ đi cái tâm thức huênh hoang tự phụ đang còn bao trùm lên tâm trí của họ. Chúng ta hiểu tại sao mắt của họ như nói lên một nỗi bối rối, bởi lẽ trong họ một tấm kịch đang diễn ra” (Le Christ dans l’art franҫais, I, Paris, Plon, 1939, trang 104). Chúng ta sẽ không thể hiểu được cuộc khổ nạn trong Tin Mừng của Gioan, nếu không hình dung ra được màn kịch này và nếu không nhớ tới sự đảo lộn, đổi ngôi đang diễn ra trong tâm hồn của Gioan cũng như Phêrô, do một câu nói của Đức Giêsu như một lời cảnh cáo: ”Nếu Thầy không rửa chân con, thì con không có phần nào với Thầy”(Ga 13,8).

Quả thực, Đức Giêsu đã tự hạ, đã bước xuống chỗ thấp nhất. Tất cả đều trái ngược với những ý nghĩ mà xưa nay các ông có về Đấng Messia, đến nỗi các ông ấy cảm thấy như bị thách đố.

Chúng ta còn nhớ cách đây không lâu, Gioan đã chẳng mưu tính với anh mình là Giacôbê để vận động cho hai người ngồi hai bên tả bên hữu Đức Giêsu trong ngày Ngài được quang vinh hay sao? Thế mà bây giờ Đấng là “Chúa và Thầy” của các ông ấy lại ăn mặc như một nô lệ và đang phục vụ dưới chân các ông! Và còn kinh khủng hơn khi Ngài còn coi việc đó như một quy luật và bảo họ phải theo: ”Thầy đã nêu gương cho anh em, để như Thầy đã làm như thế nào thì anh em cũng làm y như vậy” (13,15). Việc làm của Chúa quả thực là khó hiểu. Mãi ”sau này” Gioan mới hiểu được điều đó (13,7), và ông đã phải viết lên “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

Vâng! Để giải cứu con người, Thiên Chúa đã hạ mình như thế. Từ đây tất cả mọi sự đều thay đổi ý nghĩa: tự hạ trở thành “nâng cao”. Bước xuống chỗ thấp nhất là leo lên chỗ cao nhất. Tự huỷ của một tên nô lệ chính là sự siêu tôn Con Người.

Đó là con đường Chúa đã đi. Những ai muốn đi theo Ngài không có quyền đi ra khỏi đường đó.

 

8. Bài học rửa chân (Ga 13,1 – 15)--Lm Giuse Đinh Tất Quý

Chiều thứ Năm Tuần Thánh là một buổi chiều của tình yêu. Cả bầu không khí thấm đẫm tình yêu. Từng lời nói, từng cử chỉ của Chúa Giê-su đều trang trọng và đậm đặc sứ điệp tình yêu làm cho phòng Tiệc ly hôm nay thật ấm cúng. Hai cử chỉ nổi bật trong bữa Tiệc ly là việc Chúa Giê-su lập Phép Thánh Thể và rửa chân cho các Môn đệ.

Thánh Gio-an không tường thuật việc lập Phép Thánh Thể, nhưng chỉ tập trung vào việc rửa chân. Việc rửa chân được miêu tả rất tỉ mỉ, rành rọt, từng chi tiết, bằng lời văn trang trọng. Ta hãy đọc lại đoạn tả Chúa Giê-su chuẩn bị rửa chân cho các môn đệ: ”Chúa Giê-su đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Người đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ.”

Chúa Giê-su cử hành việc rửa chân một cách trang trọng như cử hành một bí tích. Vì việc rửa chân bổ túc cho bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể được cử hành trong nhà thờ. Việc rửa chân được thực hiện ngoài cuộc đời. Khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giê-su có ý dạy ta hãy thực hành đạo không chỉ trong nhà thờ mà còn ngoài xã hội nữa. Bí tích Thánh Thể hướng lòng ta về Chúa. Việc rửa chân hướng lòng ta về con người. Khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giê-su có ý dạy ta rằng chỉ mến Chúa thôi thì chưa đủ, cần phải yêu người nữa mới trọn vẹn điều răn Chúa truyền. Bí tích Thánh Thể được cử hành trên bàn thờ. Việc rửa chân được cử hành trên con người. Khi rửa chân cho các môn đệ Chúa Giê-su dạy ta rằng con người chính là đền thờ, là bàn thờ của Chúa.

Chúa Giê-su cử hành nghi thức rửa chân một cách trang trọng vì Người kính trọngcon người. Đang ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn thắt lưng, đó là cử chỉ của người đầy tớ. Khi chủ đang ngồi ăn, đầy tớ phải đứng phục vụ. Để việc phục vụ được dễ dàng đầy tớ phải cởi bỏ áo ngoài, thắt lưng cho gọn gàng. Hãy xem, Người quỳ gối xuống trước mặt môn đệ. Ai nhìn cảnh tượng này mà không xúc động đến ứa lệ. Thiên Chúa quỳ đối trước mặt con người. Thiên Chúa hạ mình phục vụ con người. Thật là một cảnh tượng mà không trí óc nào có thể tưởng tượng nổi. Thật là một sáng kiến mà không có nhà phát minh nào dám ngờ tới. Chưa hết, khi Phê-rô lên tiếng hỏi, Chúa Giê-su ngẩng mặt lên để trả lời. Một cảnh tượng khiến những tâm hồn kiêu căng phải vỡ ra tan nát. Thiên Chúa phải ngẩng đầu lên mới đối diện được với con người. Thiên chúa hạ mình thẳm sâu để tôn vinh con người. Thiên chúa trân trọng con người, biến con người thành đối tượng phục vụ.

Có thứ phục vụ vì bắt buộc. Có thứ phục vụ vì yêu thương. Chẳng ai có thể bắt buộc Thiên chúa phục vụ con người. Chính tình yêu thương đã thúc đẩy Người làm điều ấy. Hãy nhìn Người nâng niu bàn chân nhân loại. Những bàn chân đã lầm đường lạc lối. Những bàn chân mang đầy thương tích. Những bàn chân cáu bẩn bụi trần. Người âu yếm kỳ cọ cho sạch mọi đau thương. Người nhẹ nhàng tẩy rửa mọi vết nhơ phản bội. Người dịu dàng phủi đi lớp bụi kiêu căng. Người lặng lẽ xoá đi những dấu vết mặc cảm. Người rửa sạch đôi chân để từ nay nhân loại có thể đứng thắng lên. Người uốn nắn đôi chân để từ nay con người biết đi vào đường nay nẻo chính.

Chúa Giê-su không giải thích trước khi rửa chân cho các môn đệ. Làm rồi Người mới nói. Việc làm của Người không chỉ đi đôi mà còn đi trước lời nói. Người muốn dậy tôi hiểu rằng việc làm quan trọng hơn lời nói. Việc phục vụ tự nó đã là một giải thích sâu xa, dễ hiểu và có sức thuyết phục. Chính việc làm minh chứng một tình yêu chân thành tha thiết.

Chiêm ngắm Chúa rửa chân cho các môn đệ, tôi hiểu rằng: Thánh lễ không kết thúc ở nhà thờ mà còn phải tiếp tục trong cuộc sống. Thánh lễ ngoài cuộc đời cũng quan trọng không kém gì thánh lễ trong nhà thờ, nên cũng phải cử hành một cách trang nghiêm kính cần. Lễ vật dâng trên bàn thờ còn thiếu sót nếu tôi chưa dâng trong đền thờ thân xác con người lễ vật yêu mến phục vụ anh em. Cuộc kết hiệp với Chúa trong bí tích Thánh Thể chưa trọn vẹn nếu tôi không kết hiệp với anh em trong tình yêu thương được biểu lộ trong sự phục vụ khiêm nhường. Việc giữ đạo sẽ khập khiễng nếu tôi chỉ tạo được mối liên hệ tốt với Chúa mà không có mối liên hệ tốt với anh em. Tôi sẽ không thực hành ý Chúa nếu tôi chỉ thờ phượng Thiên chúa mà không kính trọng con người. Trân trọng con người, quan tâm phục vụ anh em đó là tất cả ý nghĩa của bài học rửa chân mà chúng ta sắp cử hành theo gương Chúa Giê-su Kitô Thầy Chí Thánh.

Xin được kết thúc bằng một câu truyện có thật do Mẹ Têrêsa Calcutta kể nhân dịp trả lời cho một cuộc phỏng vấn của đài truyền hình.

Ở châu Úc có một người thuộc thổ dân Aborigine sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo khi tuổi đã già nua. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:

- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.

Ông ta trả lời hững hờ:

- Tôi đã quen sống như vậy rồi.

- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.

Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:

- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?

Ông ta trả lời cộc lốc:

- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.

Tôi hỏi ông:

- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?

- Dĩ nhiên.

Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:

- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.

Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã yêu thương đến nỗi quỳ xuống phục vụ. Chúa còn sẵn sàng hi sinh hiến mạng sống cho con, xin cho con biết yêu mến Chúa thành thực, biết phục vụ Chúa trong anh em của con. Amen.

 

9. Hãy yêu thương như Thầy--Lm. Đan Vinh

(Xh 12, 1-8. 11-14; 1 Cr 11, 23-26; Ga 13, 1-15)

Tin Mừng Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay cho chúng ta thấy tình yêu tột đỉnh của Đức Giê-su qua ba sự kiện như sau:

1) Yêu thương là hiến thân phục vụ cho người mình yêu:

Yêu thương bằng lời nói có thể bị coi là yêu bằng đầu môi chót lưỡi. Yêu thương bằng cử chỉ có thể bị coi chỉ là giả hình bề ngoài. Còn khi yêu thương bằng hành động mới chứng tỏ một tình yêu thực sự.

Vì thế, Đức Giê-su không những dạy các môn đệ yêu thương nhau: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, mà Người còn đòi các ông phải yêu thương bằng hành động cụ thể noi gương Người làm: cởi bỏ chiếc áo cao quý của thân phận Thiên Chúa đế đeo chiếc khăn thấp hèn của người phàm và cúi mình rửa chân hầu hạ các ông.

Rửa chân xong, Người tiếp tục dạy môn đệ bài học phục vụ: “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm... Vậy Thầy là “Chúa” là “Thầy” mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”.

Qua hành động này, Đức Giê-su muốn mỗi tín hữu cũng phải yêu thương bằng hành động rửa chân phục vụ tha nhân. Rửa chân bao gồm những việc như: lắng nghe để cảm thông với nhu cầu của tha nhân, rồi đáp ứng bằng việc chia sẻ cơm áo cho người đói rét, băng bó những vết thương và góp phần chữa lành bệnh nhân liệt giường, an ủi những người đau khổ vì bị áp bức kỳ thị, thăm viếng những cụ già neo đơn bị bỏ rơi trong các nhà dưỡng lão…

2) Yêu thương là muốn hiệp nhất với người mình yêu:

Khi yêu thương người ta không những hy sinh phục vụ nhau, mà còn muốn nên một với nhau như có người đã nói: “Mình với ta tuy hai mà một. Ta với mình tuy một mà hai”. Vì thế, Đức Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể, để biến tấm bánh trong bữa ăn thành Thân Mình của Người sắp bị nộp và biến chén rượu trở thành Máu thánh Người sắp đổ ra trong cuộc khổ nạn làm của ăn của uống cho các môn đệ hầu ban sự sống muôn đời cho những ai lãnh nhận: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em” (1 Cr 111,24); vì “Ai ăn thịt và uống máu Thầy, thì sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,5a).

3) Yêu thương là muốn được ở mãi với người mình yêu:

Đức Giê-su đã hứa trước khi lên trời: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế “ (Mt 28,20). Để có thể ở cùng các môn đệ luôn mãi, Đức Giê-su đã thiết lập bí tích truyền chức thánh để trao ban chức linh mục cộng đoàn cho các tín hữu, và chức linh mục thừa tác cho những người được tuyển chọn: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).

Khi tham dự thánh lễ Tiệc Ly chiều Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay, ước gì mỗi tín hữu chúng ta hiểu được bài học khiêm tốn phục vụ qua nghi thức rửa chân và cảm nhận được tình thương tột cùng của Chúa qua bí tích Thánh Thể. Xin cho chúng ta sẵn sàng đáp lại tình Chúa yêu thương bằng sự kết hiệp mật thiết với Chúa khi dự lễ rước lễ, rồi sẵn sàng quên mình để phụng sự Chúa và tha nhân, hầu nên chứng nhân cho Chúa trước mặt người đời (x. Cv 1,8).

mục lục

 

10. Dấu hiệu của một tình yêu tuyệt đỉnh--Lm. Đan Vinh

(Xh 12,1-8.11-14; 1 Cr 11,23-26; Ga 13,1-15)

1. Thế nào là một tình yêu tột đỉnh:

Ngày nọ, một đôi vợ chồng bướm tranh cãi nhau. Con nào cũng cho rằng tình yêu của mình nhiều hơn bạn kia không ai chịu thua ai. Sau cùng để xác định hơn thua, bướm đực đề nghị: “Ngoài vườn có một cây hoa hồng mỗi sáng đều có nở một bông hồng rất đẹp. Vậy sáng mai chúng ta sẽ thi nhau xem: ai sẽ đến ngồi vào trong bông hoa hồng trước, khi nó vừa nở ra sẽ chứng tỏ mình có tình yêu nhiều hơn". Bướm cái gật đầu đồng ý.

Hôm sau, ngay từ sáng sớm bướm đực đã bay đến đứng chờ ngay bên bông hoa sắp nở, chờ khi nó vừa nở ra là chú sẽ chui vào trước bướm cái. Có điều khi sắp tới lúc hoa nở mà vẫn chưa thấy bướm cái xuất hiện. Rồi cuối cùng thì cũng tới lúc hoa nở, chú bướm liền nhanh chân chui vào. Nhưng chú rất ngạc nhiên khi thấy bướm cái đã có mặt trong bông hoa rồi. Có điều khi nhìn kỹ thì chú thấy bướm cái đã bị chết khô. Thì ra để nắm chắc phần thắng, bướm cái đã bay đến cây hoa hồng ngay từ tối hôm trước. Cô bướm đã chui qua kẽ hở vào ngồi trong bông hoa. Cô định sáng sớm hôm sau khi hoa nở và gặp bướm đực cô sẽ chứng tỏ tình yêu cô dành cho chú thật lớn lao. Nhưng chẳng may cô lại bị chết ngạt trong bông hoa khi nó chưa nở!

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy tình yêu của bướm cái dành cho bướm đực thật tuyệt vời. Đối với loài người chúng ta cũng vậy: tình yêu thật cần thiết để chúng ta được sống vui tươi hạnh phúc. Khi có tình yêu người ta sẽ cảm thấy cuộc đời thật đáng sống. Khi tình yêu biến mất thì cuộc sống cũng bị chìm trong nỗi buồn chán cô đơn và tuyệt vọng.

2. Đức Giê-su đã làm gì để chứng tỏ tình yêu tột đỉnh dành cho chúng ta?:

Phụng Vụ Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta về tình yêu cao cả của Chúa Giê-su dành cho chúng ta. Đức Giê-su đã thể hiện tình yêu tột đỉnh khi sẵn sàng quỳ gối rửa chân hầu hạ môn đệ để dạy các ông bài học khiêm nhường phục vụ; Sẵn sàng trở thành của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng ta qua việc thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Còn các tín hữu chúng ta sẽ làm gì để đáp lại tình thương vô biên của Chúa Giê-su, nhất là trong những ngày Tam Nhật Thánh và trong mùa Phục Sinh sắp tới?

3. Lời cầu quyết tâm:

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương chúng con bằng một tình yêu tột đỉnh, thể hiện qua hành động khiêm tốn rửa chân cho môn đệ và sau đó thiết lập bí tích Thánh Thể để trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng con. Xin gia tăng lòng tin yêu trong chúng con, để chúng con noi gương Chúa quan tâm đến người chung quanh, sẵn sàng phục vụ cộng đoàn, nhất là thăm viếng những người nghèo đói bệnh tật và đau khổ bất hạnh gần bên chúng con, hầu chúng con trở thành dấu chỉ môn đệ đích thực của Chúa.- Amen.

 

11. Bí Tích Thánh Thể--ÐTC Gioan Phaolô II

(Thánh Lễ Tiệc Ly Thứ năm Tuần Thánh năm 2002)

1. "Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1).

Những lời trong bản văn Tin Mừng vừa được công bố nhấn mạnh rõ ràng bầu khí Ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Những lời này cho chúng ta một cái nhìn thấu suốt bên trong điều Ðức Kitô cảm nhận "trong đêm bị phản bội" (1Cor 11,23), và những lời này linh hứng chúng ta tham gia sốt sắng với lòng cảm tạ của mỗi người trong nghi thức long trọng mà chúng ta đang cử hành.

Chiều nay, chúng ta bắt đầu cuộc Vượt Qua của Ðức Kitô, biến cố hình thành nên giây phút bi đát và chung cuộc cho sự hiện diện trần thế được chuẩn bị và mong đợi từ lâu của Ngôi Lời. Ðức Giêsu đã đến giữa chúng ta không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ, và Ngài mang trên vai những thăng trầm và hy vọng của nhân sinh trong mọi thời đại. Tiên đoán trước cách nhiệm mầu về lễ hy sinh trên Thánh Giá, tại phòng Trên Gác, Ngài muốn ở lại với chúng ta trong hình bánh và rượu, và ký thác cho các môn đệ cũng như những người tiếp bước các ngài sứ mạng và quyền năng để làm sống mãi kỷ niệm sống động và rõ nét về biến cố đó trong bí tích Thánh Thể.

Việc cử hành này, vì vậy, lôi cuốn cách nhiệm mầu tất cả chúng ta và đưa chúng ta vào Tam Nhật Thánh, thời gian trong đó chúng ta cũng sẽ học từ Ðấng "là Thầy và là Chúa" để "giang cánh tay chúng ta ra" và đi ra bất cứ nơi đâu chúng ta được kêu gọi thực thi di chúc của Cha trên trời.

2. "Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy" (1Cor 11,24-25)

Với lệnh truyền thúc giục chúng ta lặp lại cử chỉ của Ngài, Ðức Giêsu hoàn tất việc thiết lập Bí Tích của Bàn Thờ. Khi Ngài rửa chân xong cho các môn đệ, một lần nữa, Ngài mời gọi chúng ta hãy bắt chước Ngài: "Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con" (Ga 13,15). Bằng cách này, Ngài thiết lập một sự liên kết thân mật giữa bí tích Thánh Thể, bí tích của quà tặng hy sinh của Ngài, và huấn lệnh yêu thương khiến ta chào đón và phục vụ anh chị em mình.

Việc dự phần vào bàn tiệc của Chúa không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh chị em chung quanh ta. Mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng nói "Amen" trước Mình và Máu Thánh Chúa. Khi làm như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là "rửa chân" cho anh chị em mình, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng "đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ" (Phil 2,7).

Tình yêu là di sản cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Ngài kêu gọi theo Ngài. Chính tình yêu của Ngài, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.

3. "Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình" (1Cor 11,29).

Thánh Thể là một ban tặng cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.

Truyền thống của Giáo Hội luôn nhấn mạnh đến sự liên kết giữa bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải. Tôi cũng muốn tái xác nhận điều này trong Thư Gởi Cho Các Linh Mục Ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm nay, bằng cách mời gọi các linh mục trên hết hãy tái khám phá vẻ đẹp của Bí Tích Thứ Tha. Chỉ có cách này các ngài mới có thể giúp các tín hữu, những người được phó thác cho sự chăm sóc mục vụ của các ngài, tái khám phá Bí Tích này.

Bí tích Hòa Giải tái tạo lại cho những người đã chịu phép rửa tội ân sủng thánh thiện mà họ đánh mất do những tội trọng, và làm cho họ xứng đáng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Hơn thế nữa, qua cuộc đối thoại trực tiếp xảy ra thông thường khi cữ hành bí tích này, bí tích này còn đáp ứng nhu cầu truyền thông cá nhân, một điều mà ngày nay, càng ngày càng trở nên khó khăn như một hệ quả của bước tiến cuồng nhiệt của xã hội kỹ thuật.

Qua hành động soi sáng và kiên nhẫn của mình, cha giải tội có thể đem hối nhân vào trong sự hiệp thông sâu sắc với Ðức Kitô, sự hiệp thông do Bí Tích này phục hồi và Bí Tích Thánh Thể đưa đến mức đầy hoa trái.

Cầu mong sao cho sự tái khám phá Bí Tích Hòa Giải giúp tất cả các tín hữu tiến gần đến bàn tiệc Mình và Máu Thánh Chúa trong niềm kính trọng và với lòng sốt mến.

4. "Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1)

Chúng ta hãy trở lại Phòng Trên Gác trong tinh thần! Nơi đây chúng ta tìm thấy lại chính chúng ta trong đức tin chung quanh Bàn Thờ của Chúa, khi chúng ta cử hành Bữa Tiệc Ly. Lặp lại những cử chỉ của Ðức Kitô, chúng ta công bố rằng cái chết của Ngài đã cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và tiếp tục mạc khải niềm hy vọng về một tương lai của ơn cứu độ cho những người nam, người nữ của mọi thời đại và của mọi nơi chốn.

Các linh mục được kêu gọi để tiếp tục nghi thức mà, dưới hình bánh và rượu, thể hiện lễ hy sinh của Ðức Kitô, trung thực, thật sự và thiết thực, cho đến ngày sau hết. Tất cả các Kitô hữu được mời gọi để trở nên những đầy tớ khiêm hạ và tế nhị của anh chị em họ, để hợp tác trong ơn cứu độ của họ. Chính là nhiệm vụ của mỗi tín hữu phải công bố qua chính cuộc sống của họ rằng Con Thiên Chúa đã yêu thương chính họ "đến cùng". Chiều nay, trong sự yên lặng đầy nhiệm mầu, đức tin chúng ta được nuôi dưỡng.

Hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, chúng con công bố cái chết của Ngài: Lạy Chúa, Ðầy lòng biết ơn, chúng con đã nếm niềm vui sự phục sinh của Ngài. Ðầy lòng tín thác, chúng con cam kết sống trong niềm trông mong Ngài lại đến trong vinh quang. Hôm nay và mãi mãi, Lạy Chúa Kitô, Ðấng Cứu Chuộc chúng con. Amen!

+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng

 

12. Tình yêu Chúa Giêsu di chúc--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Chiều hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Tam Nhật Thánh, sống lại những giây phút cuối cùng của Chúa Kitô ở trần gian, đặc biệt là cuộc thương khó và phục sinh của Ngài. Thứ Năm - ngày đầu tiên Tam Nhật Vượt Qua nhớ đến ba việc trọng đại mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong bữa ăn cuối – bữa Tiệc ly: Bí tích Thánh Thể, chức linh mục và Di chúc tình yêu.

Câu chuyện

“Bữa Tiệc ly” hay “Bữa tiệc cuối cùng” là một bức tranh nổi tiếng Leonardo Da Vinci vẽ vào khoảng những năm 1495 - 1498. Có chuyện kể rằng sau khi Leonardo Da Vinci vẽ tranh đó, được nhiều người khen ông vẽ chén thánh đẹp, nên sau đó Da Vinci đã cạo bỏ hình chén thánh đi để người xem chú ý vào ý nghĩa của bức tranh.

Bức tranh mô tả Chúa Giêsu và mười hai môn đệ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị môn đệ Giuđa phản bội. Bữa Tiệc ly vào chiều tối ngày thứ Năm, thời điểm Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể và chức linh mục tư tế.

Giuđa Iscariôt - một môn đệ của Chúa Giêsu đã tố giác với các thầy tư tế Do Thái để bán đứng Thầy với ba mươi đồng bạc. Chính giữa bức tranh là Chúa Giêsu đang nói với các môn đệ: “Trong anh em có người sẽ bán rẻ Thầy”. Mười môn đệ ngồi đồng bàn, mỗi người một vẻ mặt khác nhau: ba người thì thầm bàn bạc, ba người tỏ vẻ giận dữ (trong đó có một người đập mạnh tay xuống bàn), một người lộ vẻ nghi ngờ, một người tỏ ra ngạc nhiên, một người ngồi ngay ngắn tỏ lòng trung thành, hai người lộ vẻ xúc động.

Chỉ có một môn đồ mặt tái nhợt, lưng hơi ngả về sau, tay nắm chặt túi tiền là Giuđa - người mặc áo xanh thứ tư từ bên trái, tay cầm bọc tiền, có thể là tiền bán Chúa. Sau lưng ông là một khoảng tối, còn sau lưng Chúa Giêsu là ô cửa đầy ánh sáng. Những tia sáng chiếu vào gương mặt Chúa Giêsu làm ánh lên vẻ điềm tĩnh, hiền từ mà cương nghị. Sự tương phản mạnh mẽ này đã biểu đạt được sự căm giận sâu sắc của tác giả đối với lũ gian ác, sự ngưỡng vọng đối với chính nghĩa.

Suy Niệm

Ngày đầu tiên Tam Nhật Vượt Qua - ngày nhắc lại sứ điệp căn bản của Tin Mừng. “Ðức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa” (Ga 13,3), ngày tưởng niệm ba việc trọng đại:

Thiết lập Giao ước mới trong Mình và Máu Thánh Chúa gọi là bí tích Thánh Thể: Ngài trao ban chính thân thể Ngài như của ăn cho con người…

Chức linh mục tư tế cử hành Thánh Thể cho đến ngày tận thế.

Chúa Giêsu trao giới răn mới như lời trăn trối cuối cùng của Ngài, trước khi giã từ trần thế: Đây là điều răn của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

Ngài luôn yêu mến các kẻ thuộc về Ngài còn ở trong thế gian. Ngài đã yêu họ đến cùng. Ngài mời gọi các môn đệ noi gương Ngài sống tinh thần phục vụ trong yêu thương. Tình yêu này được biểu tượng bằng việc Chúa rửa chân môn đệ, Tin Mừng hôm nay theo thánh Gioan nói rất rõ việc rửa chân như là dấu chỉ phục vụ trong yêu thương và thư của thánh Phaolô trình bày việc Chúa lập bí tích Thánh Thể (x. 1Cr 11,23-26), bí tích dâng hiến tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.

Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta suy gẫm:

Ðiều răn mới Chúa: Hãy yêu thương như Chúa yêu. Xin cho chúng ta hãy mau mắn thi hành điều Chúa truyền trong gia đình, trong xóm đạo, nơi công sở... của chúng ta. Tình yêu phải như vết dầu loang lan tỏa tới khắp cả mọi người. Tình yêu càng rộng, cuộc chiến thắng của Ðức Giêsu càng mau tới giai đoạn hoàn tất.

Chúng ta suy nghĩ hình ảnh của chức linh mục phục vụ dân Chúa và cử hành Thánh Thể. Đặc biệt, chúng ta duyệt lại lòng yêu mến bí tích Thánh Thể - sự dâng hiến của Thiên Chúa cho con người.

Như Chúa Giêsu, xin cho chúng ta trở nên dấu chỉ của tình yêu.

Ý lực sống: “Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).

 

13. Thánh Thể Bí Tích Phục Vụ

Mẹ Têrêsa thành Calcutta có lần kể lại câu chuyện nầy:

Một hôm có một thiếu nữ tìm đến xin gia nhập Dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ. Theo luật dòng, ngày đầu tiên khi mới đến, tất cả những ai muốn sống trong dòng, cũng đều được mời sang nhà hấp hối – tức là nhà tiếp đón những người sắp chết. Vì thế, cô thiếu nữ nầy được mời sang nhà hấp hối. Mẹ Têrêsa nói với cô ấy:

“Con đã nhìn thấy linh mục dâng Thánh lễ chứ? Con đã thấy ngài sờ đến Thánh Thể với biết bao chăm chú và yêu thương. Con cũng hãy đi và làm như thế tại nhà hấp hối, bởi vì con sẽ tìm thấy Chúa Giêsu trong thân thể những người anh em khốn khổ đó”.

Cô thiếu nữ ra đi… Một thời gian sau, cô trở lại với một nụ cười rạng rỡ có lẽ chưa bao giờ trông thấy. Cô vui vẻ thốt lên với Mẹ Têrêsa: “Thưa Mẹ, con đã sờ được thân thể Chúa trong suốt ba tiếng đồng hồ”.

Mẹ Têrêsa mới hỏi lại sự thể đã diễn ra như thế nào? Cô ta đáp? “Thưa Mẹ, con vừa đến nhà hấp hối thì thấy người ta mang đến một người vừa ngã xuống một hố sâu, mình mẩy đầy những vết thương và bùn đất hôi thối… Con đã đến và con đã tắm rửa cho anh ta. Con biết rằng làm như thế là chạm đến thân thể của Đức Kitô”.

Thưa anh chị em, Thánh lễ là trung tâm của cuộc sống và cuộc sống hằng ngày là một Thánh lễ nối dài. Đức Kitô không chỉ muốn chúng ta gặp gỡ nhau trong Thánh lễ mà còn muốn chúng ta gặp gỡ Ngài qua tất cả mọi sinh hoạt và gặp gỡ khác trong cuộc sống. Từng cuộc gặp gỡ với tha nhân, nhất là những người nghèo hèn nhất, phải là một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.

Ngay trong bữa tối Thứ Năm Thánh nầy, trước khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Việc nầy làm nổi bật một ý nghĩa lớn của Bí tích Thánh Thể, đó là Thánh Thể là bí tích phục vụ. Thánh Thể là phương thế Chúa Giêsu chọn để thể hiện ý muốn phục vụ của Ngài. Để phục vụ, Ngài phải trả một giá rất đắt. Để phục vụ, Ngài đã tự hiến làm lễ vật giao hoà, làm Chiên Vượt Qua chịu sát tế vì sự sống của thế giới. Để phục vụ, Ngài chấp nhận trở nên lương thực cho loài người sử dụng. Thiên Chúa đã trở nên phương thế phục vụ sự sống của con người. Vì “Ngài yêu thương chúng ta đến tận cùng”.

Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phục vụ như Ngài. Bởi vì, một khi đã đồng hoá mình với Chúa Giêsu trong Thánh Thể, chúng ta phải sống như Ngài. Nếu không sẵn lòng phục vụ thì đó là dấu chứng chúng ta không thực lòng tham dự Thánh Thể. Không phục vụ là chưa gặp được Chúa Giêsu thật, chưa đón nhận Ngài, chưa thật sự nên một với Ngài. Trái lại, phục vụ là dấu sự sống của Chúa Giêsu Thánh Thể đã thực sự biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta nên một con người mới.

Để làm gương mẫu phục vụ cụ thể, Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ và mời gọi chúng ta hãy rửa chân cho nhau: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà con rửa chân cho anh em, thì anh em phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.

Trong xã hội Do Thái, chỉ có đầy tớ, nô lệ rửa chân cho chủ. Ở đây, Thầy lại rửa chân cho trò. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa đi rửa chân cho con người, mà lại là con người tội lỗi. Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho Phêrô, kẻ chối Thầy; rửa chân cho tất cả những người còn lại là “những kẻ sẽ bỏ Thầy mà trốn chạy hết”.

Ngài làm như vậy để được gì? Không được gì cả! Chỉ để minh chứng một Thiên Chúa là như thế đó: một Thiên Chúa “đến để phục vụ con người và hiến mạng sống để cứu chuộc con người”. Một Thiên Chúa thay vì tiêu diệt bọn tội lỗi, lại quỳ xuống trước mặt họ, hôn chân họ. Một Thiên Chúa thay vì trả thù, lại đã đổ máu để minh chứng sự tha thứ yêu thương. Một Thiên Chúa thật lạ lùng! Một đạo lý ngược đời, một con đường khó bước theo. Thế nhưng, Ngài đã làm và kêu gọi chúng ta cũng làm y như vậy: “Ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ. Ai muốn làm lớn thì phải làm tôi tớ mọi người”.

Ở đời, người ta dễ dàng quỳ xuống trước người quyền quý, sang trọng, vì người ta còn hy vọng ở một sự ban bố lợi lộc. Người ta dễ dàng quỳ xuống trước một người đẹp để xin bố thí một chút tình yêu. Và quỳ xuống trước một người thánh thiện để cầu mong một ân huệ. Tất cả những cái quỳ xuống đó là để van xin cho mình, để có lợi cho mình. Nhưng mấy ai quỳ xuống trước kẻ thù, quỳ xuống trước người ốm đau, bệnh tật, quỳ xuống rửa chân lở loét của những người phong cùi!

Còn Chúa Giêsu, Ngài quỳ xuống trước tội nhân. Ngài muốn cái gì đây? Là Thiên Chúa, có khi Ngài còn thiếu thốn gì chăng? Là kẻ ban phát tình yêu, không lẽ Ngài lại thiếu thốn để độ phải van xin? Không, Ngài không van xin gì cả. Quỳ xuống trước mặt con người chỉ vì Ngài quý trọng con người. Ngài yêu thương con người. Ngài muốn cho con người được sống và sống thật hạnh phúc. Khi con người biết sống cho người khác được hạnh phúc là họ đã theo gương rửa chân của Chúa. đây là bài học sống cho người Kitô hữu. Nơi Chúa Giêsu, tình yêu đã chiến thắng tội lỗi của con người, đã vượt lên trên tội lỗi, để phục vụ đến độ hy sinh mạng sống mình cho chính tội nhân.

Anh chị em thân mến, muốn phục vụ như Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải hiến thân như Ngài. Đây là điều khó, điều thường làm chúng ta hoảng sợ, chùn chân không dám đi tới cùng. Nhất là hiến thân vì anh em, rửa chân cho anh em. Tuy nhiên, dù chưa dám làm hoặc chưa làm được, ít nhất chúng ta cũng phải thừa nhận ra rằng; phục vụ và hiến thân là những đòi hỏi không thể thiếu của Bí tích Thánh Thể.

Do đó, trong cuộc sống mỗi ngày, nhất là những khi dự Tiệc Thánh Thể, chúng ta hãy để cho những đòi hỏi đó day dứt trong lòng chúng ta, day dứt như một vết thương không bao giờ lành, khiến cho chúng ta không bao giờ dám an tâm trong hững hờ vị kỷ với mọi người anh em.

 

14. Bí tích Thánh Thể--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Tại một ngôi làng nhỏ bên Tây Đức, trước năm 1940 là nơi gặp gỡ của các danh họa Âu Châu, nhưng kể từ thế chiến thứ hai, nó trở thành nhà tù giam giữ những phạm nhân của Đức Quốc xã, có mặt một Phó tế được phong chức linh mục tại đây. Sau khi chết, ngài để lại chúc thư “Tình yêu và đền bù”. Thế rồi 15 năm sau, nhà tù đó biến thành Dòng kín Carmel, các nữ tu đến đó để sống cho lý tưởng tình yêu và đền bù.

Tình yêu chính là ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể. Trong Bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã quỳ gối rửa chân cho các Tông đồ và cũng trong Bữa tiệc ly Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể cũng như loan báo về cái chết của Ngài. Phêrô đại diện các Tông đồ đã có lý khi khước từ Chúa Giêsu rửa chân cho ông vì đây là công việc của tôi tớ trong nhà. Theo tục lệ người Do Thái, trước khi vào bàn ăn tôi tớ trong nhà phải đi rửa chân cho khách. Chúa Giêsu đã muốn thực hiện cử chỉ ấy để thực thi chính điều Ngài đã nói: Con Người không đến để được hầu hạ, những để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhiều người.

Cử chỉ yêu thương mà Chúa Giêsu đã làm cho các Tông đồ là một quyết tâm sống trọn ý nghĩa yêu thương của Ngài, cũng như người tôi tớ không sống cho mình mà cho người khác. Nhưng Ngài chưa lấy làm đủ, Ngài còn biểu lộ tình yêu qua hình ảnh một miếng bánh trao ban để ở mãi với con người. Bị bẻ ra và tiêu tan, Chúa Giêsu đã sống đến cùng những đòi hỏi của yêu thương. Thánh Gioan đã tóm gọn cuộc sống Chúa Giêsu qua câu: “Ngài đã yêu các kẻ thuộc về Ngài và đã yêu đến cùng”, nghĩa là sẵn sàng sống chết cho người mình yêu. Tình yêu đến cùng ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện qua cái chết trên Thập giá, và Ngài còn muốn tái diễn hàng ngày dưới hình dạng Bánh và Rượu trong bí tích Thánh Thể. Cũng như tôi tớ chỉ sống và chết cho người khác, chiếc bánh chỉ hiện hữu để được ăn, được hao mòn, được tiêu tán. Dưới hình thức lương thực, Chúa Giêsu muốn thể hiện tình yêu của Ngài đối với chúng ta; tiếp nhận Ngài qua bí tích Thánh Thể, chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài; ăn uống Ngài, chúng ta cũng được mời gọi nên giống Ngài và san sẻ sự sống của Ngài cho người khác.

Sống và chết cho người khác, nên một với Ngài là thực hiện sứ mệnh của Ngài tức là phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Sứ mệnh phục vụ ấy Chúa Giêsu muốn truyền lại cho chúng ta qua Bí tích Truyền chức Linh mục là người được ủy thác để lặp lại lời của Chúa Giêsu. “Các con hãy làm việc này, mà nhớ đến Ta”. Làm việc này không những là cử hành Bí tích Thánh Thể để Chúa Giêsu luôn ở mãi giữa nhân loại, mà còn chu toàn sứ mệnh phục vụ của Ngài. Không chỉ riêng linh mục, nhưng tất cả những ai nhờ phép rửa được tháp nhập vào sự sống Đức Kitô, nghĩa là mọi kitô hữu trong lời nói và hành động cũng yêu thương và chết để nhớ đến Ngài. Mỗi cử chỉ và hành vi bác ái đều là một nghĩa cử tưởng nhớ đến Chúa Giêsu, đều là một tiếp tục, hay đúng hơn là một hiến lễ được dâng trên bàn thờ.

Tưởng nhở việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể và truyền chức linh mục trong ngày thứ năm tuần thánh, chúng ta nhớ đến cách đặc biệt các linh mục. Xin Chúa ban cho các ngài luôn trung thành với sứ mệnh phục vụ. Xin cho tình yêu Chúa luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta để chúng ta cũng sống yêu thương và phục vụ.

mục lục

 

15. Kỷ vật tình yêu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước đêm hấp hối trong Vườn Cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự hiện diện thực sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh Thứ Bẩy Tuần Thánh. Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng ngụ ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến ngày Chúa Kitô sống lại.

Cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mục đích của Tam Nhật Vượt Qua. “Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Ca nhập lễ).

“Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1-2). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ, thì Người đã yêu họ đến cùng một cách kinh ngạc. Thật không có hành động nào khác để diễn tả yêu thương cho bằng tình yêu. Cũng như các môn đệ, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi không có ngòi bút nào trên trần gian này có thể diễn tả hoặc viết ra hết được tình yêu thương ấy, trong những ngày cuối đời của “kiếp người” lầm than và cay đắng. Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ, Chúa thiết lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu. Tất cả chẳng phải là Kỷ Vật Tình Yêu Thiên Chúa để lại cho chúng ta đó hay sao?

“Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta… Các con hãy cầm lấy mà uống,chén này là Tân ước trong Máu Ta” (1 Cr 11, 24-25). Thật không thể hiểu nổi, Thiên Chúa yêu nhân loại biết là chừng nào. Người đã yêu bằng một Tình Yêu trao ban, hy sinh và tận hiến. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa hiến chính thân mình làm lượng thực nuôi dưỡng chúng ta, ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Không những thế, Chúa còn cho chúng ta tham dự vào sự sống của chính Chúa khi rước Mình và Máu Thánh Ngài, để được sống đời đời.

Chưa hết, thiết lập Bí tích Thánh Thể xong, Chúa Giêsu cũng lập luôn Bí tích Truyền Chức Thánh. Chúa nói với các Tông Đồ hiện diện: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19;1 Cr 11, 24). Với lời trên, cho thấy Thiên Chúa yêu thương và tín nhiệm con người, trao cho con người tiếp tục việc làm yêu thương ấy. Mặc dù phàm nhân bất xứng, Chúa vẫn ủy thác cho sứ mạng thay mặt Chúa hiện tại hóa Hy tế Thập giá trên bàn thờ mỗi ngày, tất cả chỉ vì yêu.

Sau khi rửa chân cho các môn đệ, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta: “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa Bí tích Thánh Thể, Bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.

Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm:Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục – không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể (chỉ một lần rồi thôi). Hai điều đó liên kết chặt chẽ với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh. Trở nên một, chúng ta không còn tách biệt được nữa.

Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh em. Mỗi lần chúng ta tham dự Bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thưa “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”(Phil 2,7).

Tình yêu là kỷ vật cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Chính tình yêu của Người, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.

Thánh Thể là Kỷ Vật tuyệt đỉnh của tình yêu, một ơn cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.

Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác, nhìn nhận rằng mình là người có tội, nếu có điều gì là do tôi chứ không phải do anh em, tha nhân thật sự là anh em của tôi. Bác ái không phải là chối từ việc người khác không có lỗi, nếu lỗi là có lỗi với Chúa. “Rửa chân cho nhau” chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.

Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.

 

16. Sống yêu thương và phục vụ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Thánh Lễ Tiệc Ly (Ga 13, 1-15)

Hôm nay chúng ta tái diễn ngày Thứ Năm Tuần Thánh đầu tiên của lịch sử, ngày Chúa Giêsu Kitô qui tụ các môn đệ của mình để cử hành lễ Vượt Qua. Lúc ấy, Chúa đã khai mở Lễ Vượt Qua mới của Tân Ước, mà chính Người tự ý nộp mình chịu khổ hình để cứu độ chúng ta.

Trong Bữa Tiệc Ly Thánh, Chúa Kitô đã thiết lập Bí tích Thánh Thể. Lời thánh Phaolô nói về điều nầy được coi như là bài tường thuật cổ xưa nhất về bửa Tiệc Ly của Chúa, có ghi lại rằng Chúa Giêsu, “trong đêm Người bị phản bội, đã cầm lấy bánh và sau khi dâng lời chúc tụng, thì bẻ bánh ra và nói: “Ðây là Mình Ta, được trao ban cho chúng con; hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta”Cũng vậy, vào cuối bữa ăn, Chúa cầm lấy chén rượu và nói: “Ðây là chén của giao ước mới trong Máu Ta; hãy làm việc này, mỗi lần anh em uống chén này, để nhớ đến Ta”. Thật vậy, mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén nầy, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho đến khi Người lại đến” (x. 1 Cr 11, 23- 26). Những lời long trọng trong đó được thông truyền qua các thế kỷ chứng tích kỷ niệm việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Mỗi năm, vào ngày thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta nhớ lại điều này, và trong tinh thần, chúng ta hướng về Căn Phòng Tiệc Ly.

Cùng một lúc Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Truyền chức linh mục, để qua các linh mục, Thánh lễ được tiếp tục. Kinh Tiền Tụng của Thánh Lễ làm phép Dầu hôm nay mạc khải cho chúng ta ý nghĩa ấy: ”Chúa đã tuyển chọn một số người để họ tham gia thánh vụ của Người nhờ việc đặt tay. Chúa muốn họ nhân danh Người tái diễn hy lễ cứu độ… dọn cho con cái Cha bàn tiệc Vượt Qua, lấy Lời Cha nuôi dưỡng và dùng các bí tích bồi bổ dân thánh của Chúa”.

Với việc thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu thông truyền cho các Tông đồ việc tham dự thừa tác vào chức linh mục của Người, chức tư tế của Giao Ước Mới và vĩnh cửu, nhờ đó đến phiên mình, các tông đồ được biến đổi thành những thừa tác viên của mầu nhiệm tuyệt vời của đức tin, mầu nhiệm được kéo dài mãi cho đến tận cùng thế gian. Ðồng thời các ngài trở thành những kẻ phục vụ cho tất cả những ai sẽ thông phần vào hồng ân và mầu nhiệm to lớn như vậy.

Và chính ngày Thứ Năm này, Chúa đã ban truyền cho chúng ta giới luật yêu thương: ”Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Nếu tình yêu xưa kia đã từng dựa trên sự đối trác, hoặc hoàn thành một tiêu chuẩn đã đặt định trước. Thì giờ đây tình yêu Kitô giáo được xây dựng trên nền tảng Tình Yêu là chính Chúa Kitô. Người đã yêu thương nhân loại đến cùng, đến cùng ở đây là cái chết, yêu đến thí mạng vì chúng ta: đây phải là thước đo tình yêu của người môn đệ đối với Thầy mình và là dấu hiệu để người ngoài nhận biết chúng ta là người Kitô hữu.

Yêu thương, không đơn giản là kết quả của những nỗ lực bản thân, nhưng một món quà từ Thiên Chúa. Hạnh phúc thay cho chúng ta có được Thiên Chúa là Tình Yêu, là nguồn suối tình yêu, Người đã tự hiến mình nơi Bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng chúng ta.

Cuối cùng, hôm nay chúng ta chiêm ngưỡng việc Chúa rửa chân cho các môn đệ. Chúa Giêsu đã mặc lấy thái độ của một người đầy tớ, cúi mình và quì xuống, rồi rửa chân cho các Tông Đồ trong Căn phòng Tiệc Ly, và truyền cho họ làm như vậy với nhau (x. Ga 13,14). Chúng ta nhìn thấy lại việc Chúa Giêsu đang rửa chân, mà theo nền văn hóa Do thái là công việc riêng của những người tôi tớ và của người thấp hèn nhất trong gia đình. Thánh Phêrô mới đầu đã lên tiếng từ chối. Nhưng Chúa thuyết phục ông, và thánh Phêrô chịu để Chúa rửa chân cho mình, cùng với những môn đệ khác. Liền sau đó, sau khi đã mặc lại áo và ngồi vào bàn, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của hành động Người vừa làm như sau: ”Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa; và điều nầy đúng lắm, bởi vì Ta là Thầy và là Chúa. Vậy, nếu Ta là Thầy và là Chúa, mà rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 12- 14). Trong cử chỉ này của Thầy Chí Thánh, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta một bài học quí giá về sự khiêm nhường. Đúng như dự đoán, vì là biểu tượng Cuộc Khổ Nạn, Chúa Giêsu đã hạ mình cho đến chết để cứu độ chúng ta.

Thần học gia Romano Guardini nói rằng: ”thái độ của người nhỏ quì xuống trước người lớn, không phải là khiêm nhường. Đơn giản, đó chỉ là sự thật. Người khiêm nhường thực sự là người lớn mà lại hạ mình xuống trước một kẻ nhỏ”. Đây là lý do tại sao nói Chúa Giêsu Kitô là Đấng khiêm nhường thật trong lòng. Trước Chúa Kitô là Đấng khiêm nhường, mô hình truyền thống bị phá vỡ. Người đã đảo ngược các giá trị thuần túy của con người và mời gọi chúng ta đi theo Người để xây dựng một thế giới mới, dựa trên sự phục vụ.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống yêu thương và phục vụ lẫn nhau như Chúa truyền dạy. Amen.

 

17. Thánh Thể, thiên chức Linh mục, giới luật yêu thương--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

THÁNH LỄ TIỆC LY (Ga 13, 1-15)

Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước đêm hấp hối trong Vườn Cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự hiện diện thực sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh Thứ Bẩy Tuần Thánh. Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng ngụ ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến ngày Chúa Kitô sống lại.

Cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mục đích của Tam Nhật Vượt Qua. “Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta” ( Ca nhập lễ ).

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1-2). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ, thì Người đã yêu họ đến cùng một cách kinh ngạc. Thật không có hành động nào khác để diễn tả yêu thương cho bằng tình yêu. Cũng như các môn đệ, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi không có ngòi bút nào trên trần gian này có thể diễn tả hoặc viết ra hết được tình yêu thương ấy, trong những ngày cuối đời của “kiếp người” lầm than và cay đắng. Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ, Chúa thiết lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu. Tất cả chẳng phải là Kỷ Vật Tình Yêu Thiên Chúa để lại cho chúng ta đó hay sao?

Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta… Các con hãy cầm lấy mà uống, chén này là Tân ước trong Máu Ta” (1 Cr 11, 24-25). Thật không thể hiểu nổi, Thiên Chúa yêu nhân loại biết là chừng nào. Người đã yêu bằng một Tình Yêu trao ban, hy sinh và tận hiến. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa hiến chính thân mình làm lượng thực nuôi dưỡng chúng ta, ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Không những thế, Chúa còn cho chúng ta tham dự vào sự sống của chính Chúa khi rước Mình và Máu Thánh Ngài, để được sống đời đời.

Chưa hết, thiết lập Bí tích Thánh Thể xong, Chúa Giêsu cũng lập luôn Bí tích Truyền Chức Thánh. Chúa nói với các Tông Đồ hiện diện: ”Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19;1 Cr 11, 24). Với lời trên, cho thấy Thiên Chúa yêu thương và tín nhiệm con người, trao cho con người tiếp tục việc làm yêu thương ấy. Mặc dù phàm nhân bất xứng, Chúa vẫn ủy thác cho sứ mạng thay mặt Chúa hiện tại hóa Hy tế Thập giá trên bàn thờ mỗi ngày, tất cả chỉ vì yêu.

Sau khi rửa chân cho các môn đệ, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta: “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa Bí tích Thánh Thể, Bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.

Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm: Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục – không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể  (Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II). Hai điều đó liên kết chặt chẽ với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh. Trở nên một, chúng ta không còn tách biệt được nữa.

Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh em. Mỗi lần chúng ta tham dự Bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thưa “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng ”đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”(Phil 2,7).

Tình yêu là kỷ vật cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Chính tình yêu của Người, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.

Thánh Thể là Kỷ Vật tuyệt đỉnh của tình yêu, một ơn cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.

Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác, nhìn nhận rằng mình là người có tội, nếu có điều gì là do tôi chứ không phải do anh em, tha nhân thật sự là anh em của tôi. Bác ái không phải là chối từ việc người khác không có lỗi, nếu lỗi là có lỗi với Chúa. “Rửa chân cho nhau” chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.

Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.

 

18. Kỷ vật tình yêu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ chiều thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước đêm hấp hối trong vườn cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự Hiện Diện Thực Sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh (Thứ Bẩy Tuần Thánh). Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng ngụ ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến ngày Chúa Kitô sống lại.

Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ, Chúa thiết lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu.

Thánh Thể

Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Kitô đã thiết lập Bí tích Thánh Thể. Lời thánh Phaolô nói về điều này được coi như là bài tường thuật cổ xưa nhất về bữa Tiệc Ly của Chúa, có ghi lại rằng Chúa Giêsu, “trong đêm Người bị phản bội, đã cầm lấy bánh và sau khi dâng lời chúc tụng, thì bẻ bánh ra và nói: “Ðây là Mình Ta, được trao ban cho chúng con; hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”Cũng vậy, vào cuối bữa ăn, Chúa cầm lấy chén rượu và nói: “Ðây là chén của giao ước mới trong Máu Ta; hãy làm việc này, mỗi lần anh em uống chén này, để nhớ đến Ta”. Thật vậy, mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho đến khi Người lại đến” (x. 1 Cr 11, 23- 26).

Những lời long trọng trong đó được thông truyền qua các thế kỷ chứng tích kỷ niệm việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Mỗi năm, vào ngày thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta nhớ lại điều này, và trong tinh thần, chúng ta hướng về Căn Phòng Tiệc Ly.

Thiên Chức Linh Mục

Chưa hết, thiết lập Bí tích Thánh Thể xong, Chúa Giêsu cũng lập luôn Bí tích Truyền Chức Thánh. Chúa nói với các Tông Đồ hiện diện: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19;1 Cr 11, 24). Với lời trên, Chúa Giêsu đã thiết lập Thiên Chức Linh mục, để qua các linh mục, Thánh lễ được tiếp tục cửa hành cho đến muôn đời. Kinh Tiền Tụng của Thánh Lễ làm phép Dầu sáng nay mạc khải đầy đủ cho chúng ta ý nghĩa ấy: “Chúa đã lấy tình huynh đệ tuyển chọn một số người, để họ tham gia thánh vụ của Người nhờ việc đặt tay. Cha muốn họ nhân danh Người tái diễn hy lễ cứu độ, dọn cho con cái Cha bàn tiệc Vượt Qua, lấy tình thương dẫn dắt, lấy lời Cha nuôi dưỡng và dùng các bí tích bổi bổ dân thánh của Cha”. Và cũng chính ngày Thứ Năm này, Chúa Giêsu nói: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34), như thế, giới luật yêu thương đã được Chúa ban truyền.

Giới luật yêu thương

Một nghi lễ vô cùng đặc biệt của Thánh lễ chiều nay là Lễ Rửa Chân. Con Thiên Chúa làm người, là Đức Chúa, đã mặc lấy thái độ của người tôi tớ và quì xuống rửa chân cho các môn sinh của Người. Trong bữa ăn tối cuối cùng trước khi chịu tử nạn, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ. Thánh Phêrô đã từ chối và phản đối: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư? … không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Nếu thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy” (Ga 13,14-15).

Rửa chân là bổn phận phục vụ và là công việc của tôi tớ (hoặc nô lệ). Ngày xưa, tôi tớ phải rửa chân cho chủ. Chúa Giêsu là Thầy và Đức Chúa, đã mặc lấy thái độ của người tôi tớ và quì xuống rửa chân cho các môn đệ của Người. Romano Guardini, một thần học gia nói rằng: “Thái độ của người tôi tớ quì gối trước ông chủ, đó không phải là khiêm tốn. Đơn giản là việc anh ta phải làm, hoàn toàn đúng. Một người xứng quì gối trước kẻ tiểu nhân mới là người khiêm nhường thật sự”. Sau khi rửa chân cho các môn đệ, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta: “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa Bí tích Thánh Thể, Bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.

Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm: Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục – không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể (chỉ một lần rồi thôi). Hai điều đó liên kết chặt chẽ với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh. Trở nên một, chúng ta không còn tách biệt được nữa.

Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh em. Mỗi lần chúng ta tham dự Bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thưa “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”(Phil 2,7).

Tình yêu là kỷ vật cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Thánh Thể là Kỷ Vật tuyệt đỉnh của tình yêu, một ơn cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác. ”Rửa chân cho nhau” chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.

Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.

 

19. Thánh Lễ Tiệc Ly-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước Đêm Hấp Hối trong Vườn Cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự Hiện Diện Thực Sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh Thứ Bẩy Tuần Thánh. Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng hàm ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến khi Chúa Kitô sống lại. Cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mục đích của Tam Nhật Vượt Qua. "Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại ; chính Người giải thoát và cứu độ ta" ( Ca nhập lễ ).

"Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1-2). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ, thì Người đã yêu họ đến cùng một cách kinh ngạc. Thật không có hành động nào khác để diễn tả yêu thương cho bằng tình yêu.  Cũng như các môn đệ, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi không có ngòi bút nào trên trần gian này có thể diễn tả hoặc viết ra hết được tình yêu thương ấy, trong những ngày cuối đời của “kiếp người” lầm than và cay đắng. Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ cho con người, Chúa lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu.

“Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta… Các con hãy cầm lấy mà uống, chén này là Tân ước trong Máu Ta” (1 Cr 11, 24-25). Thật không thể hiểu nổi, Thiên Chúa yêu nhân loại biết là chừng nào. Ngài đã yêu bằng một Tình Yêu trao ban, hy sinh và tận hiến. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa hiến chính thân mình làm lượng thực nuôi dưỡng chúng ta, ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Không những thế, Chúa còn cho chúng ta tham dự vào sự sống của chính Chúa khi rước Mình và Máu Thánh Ngài, để được sống đời đời.

Sau khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cũng lập luôn bí tích Truyền Chức Thánh  khi Người nói với các Tông Đồ hiện diện: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19 ;1 Cr 11, 24). Với lời trên, cho thấy Thiên Chúa tiếp tục yêu thương và tín nhiệm con người. Mặc dù phàm nhân bất xứng, Chúa vẫn ủy thác cho sứ mạng thay mặt Chúa hiện tại hóa Hy tế Thập giá trên bàn thờ mỗi ngày, tất cả chỉ vì yêu.

Khi Người rửa chân cho các môn đệ xong, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta: “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa bí tích Thánh Thể, bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.

Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm: Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục - không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể (chỉ một lần rồi thôi). Hai điều đó gắn chặt, liên kết với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh, trở nên một thì chúng ta không còn tách biệt được nữa.

Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh chị. Mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng nói “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”(Phil 2,7).

Tình yêu là di sản cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Chính tình yêu của Người, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.

Thánh Thể là một ban tặng cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.

Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác, nhìn nhận rằng mình là người có tội, nếu có điều gì là do tôi chứ không phải do anh em, tha nhân thật sự là anh em của tôi. Bác ái không phải là chối từ việc người khác không có lỗi, nếu lỗi là có lỗi với Chúa. “Rửa chân cho nhau” chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.

Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.

mục lục

 

20. Đôi tay biểu tượng tình yêu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Đã nhiều lần chúng ta nhìn thấy bức tranh vẽ hay điêu khắc đôi bàn tay gầy guộc chắp vào nhau hướng lên trời. Nhiều người chỉ biết rằng đây là biểu tượng của cầu nguyện. Thực ra, đôi bàn tay này do một người em đã vẽ bàn tay người anh. Một bàn tay vất vả hy sinh lao động để nuôi em ăn học.

Chuyện kể rằng có một gia đình nghèo gồm 18 người con. Hai người con lớn trong nhà đều chung ước mơ trở thành họa sĩ. Nhà nghèo nên họ quyết định chỉ một người đi học. Họ sẽ tung một đồng xu. Người thua sẽ làm thợ mỏ, dùng toàn bộ thu nhập để chu cấp cho người thắng đi học. Sau này thành tài người thắng sẽ giúp ngược lại.

Đồng xu được tung lên, người em thắng cuộc và được đi học. Người anh trong suốt 4 năm, làm lụng để nuôi người anh em của mình ăn học. Sau 4 năm thành họa sĩ nổi danh, người em muốn thực hiện lời cam kết ngày nào nên trong bữa ăn sum họp, người em đứng dậy để cảm ơn người anh trai đã hy sinh 4 năm giúp mình hoàn thành được ước mơ. Người em nói:

– Anh Albert, bây giờ đã đến lượt anh. Anh hãy theo đuổi ước mơ của mình. Em sẽ lo toàn bộ chi phí và chăm sóc gia đình. Albert mỉm cười, rồi bật khóc:

– Không, anh không thể vẽ được nữa. Đã quá muộn rồi. Bây giờ, sau 4 năm làm việc trong hầm mỏ, không còn ngón tay nào của anh là lành lặn. Thậm chí bây giờ anh còn bị thấp khớp ở tay phải nặng tới mức không thể nâng nổi một chiếc ly, nói gì đến việc cầm cọ vẽ. Cảm ơn em, nhưng bây giờ đã quá muộn rồi…

Trước tình yêu quá cao vời của anh, người em đã thực hiện một tác phẩm cẩn thận nhất trong đời: vẽ lại đôi bàn tay của anh trai mình, với lòng bàn tay hướng vào nhau và những ngón tay gầy guộc hướng lên trời. Ông chỉ gọi bức tranh của mình đơn giản là “Đôi tay”, nhưng cả thế giới đều đặt tên cho kiệt tác đó là “Đôi tay cầu nguyện”.

Xem ra đôi bàn tay còn có ý nghĩa là trao ban, là hy sinh cho người mình yêu. Đôi bàn tay ấy đã nâng ước mơ cho người em thành tài trong cuộc đời.

Hôm nay thứ năm tuần thánh cũng mời gọi chúng ta chiêm ngắm một tình yêu tự hiến qua hình ảnh tấm bánh bẻ ra để trao ban. Chúa Giê-su đã lưu dấu mãi tình yêu tự hiến cho người mình yêu. Ngài muốn chúng ta mỗi khi ăn tấm bánh ấy phải loan truyền tình yêu tự hiến của Ngài đến muôn đời. Một tình yêu cho đi mà không mong đền đáp. Một tình yêu hiến dâng quên đi cả tính mạng của mình. Một tình yêu chịu nghiền nát thành của ăn cho người mình yêu.

Trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, Chúa  đã chọn tấm bánh như một biểu trưng, một dấu chỉ cho cả cuộc đời mình. Tấm bánh được làm nên là vì sự sống, vì niềm vui của người khác mà không bao giờ là cho chính bản thân mình. Có thể đó là tấm bánh đơn sơ, dân dã đem lại niềm vui cho trẻ thơ mỗi khi mẹ đi chợ về. Có thể đó là tấm bánh nhỏ bé nhưng vô cùng cần thiết, đem lại sức sống cho người đang đói lả. Bánh có thể được đặt trang trọng trên những bàn tiệc thịnh soạn. Bánh có thể được nâng niu trên đôi tay gầy gò, run rẩy của người hành khất bên vỉa hè. Như thế, Bánh không kén chọn người ăn, và dù là cao cấp hay bình dân, bánh được làm ra là để cho đi chính mình, trao tặng chính mình, để trở nên niềm vui và sức sống cho người khác. Chúa Giêsu đã trở nên tấm bánh thật vừa với tầm tay của tất cả hạng người.

Thật đơn sơ nhưng cũng vô cùng sâu xa, vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến. Khi xưng mình là bánh, Chúa Giêsu muốn bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, chịu tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa  chịu nhỏ đi để con người được lớn lên. Chúa  chịu hủy hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa chịu chết cho ta được sống.

Hơn ba mươi năm đi khắp nẻo đường đời và trên đỉnh cao thập tự giá, Ngài đã sống như một tấm bánh. Tấm Bánh được bẻ ra và trao tặng như một cử chỉ yêu thương. Ngài trở nên Tấm Bánh như một lời mời gọi: “Anh em cầm lấy mà ăn”. Ngài trở nên tấm bánh để từ đây, Thiên Chúa có thể ở lại mãi với con người.

Hôm nay chúng ta kỷ niệm ngày Chúa lập bí tích Thánh Thể. Bí tích của tình yêu tự hiến. Qua tấm bánh đơn sơ nhưng nói lên tình yêu hiến dâng của Thầy Chí Thánh Giê-su chấp nhận tan biến cho người mình yêu.

Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu vô biên của Chúa để sống ngàn đời tri ân. Xin cho cuộc đời chúng ta cũng biết tự hủy chính mình như tấm bánh đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Amen.

 

21. Tình yêu hiến dâng-- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Tình yêu cao đẹp là tình yêu dám hy sinh cho người mình yêu. Yêu là cho đi. Yêu là dâng hiến. Yêu là chấp nhận phần thiệt thòi về mình để cho người mình yêu được hạnh phúc.

Trong bộ phim “Tôi là người đàn ông” đã diễn tả một tình yêu đầy hy sinh nơi chàng trai. Có thể nói tình cảm và sự hy sinh cao cả của chàng nhiếp ảnh gia dành cho cô gái xinh xắn trong bộ phim này khiến người xem thật ngưỡng mộ.

Trong lúc anh ta vui vẻ chụp ảnh cho bạn gái thì máy ảnh hết pin. Cô gái liền vội vã đi lấy tìm pin cho anh nhưng vô tình bị chai nước rửa phim đổ vào mắt và không nhìn thấy được nữa. Vô cùng ân hận và dằn vặt vì gián tiếp làm người yêu thương mình hỏng mắt, nhiếp ảnh gia này đã quyết định hiến tặng đôi mắt của mình cho cô gái, sau đó bỏ đi thật xa.

Một hôm cô ta tình cờ gặp lại anh đang ngồi với chú cún, trên tay vẫn cầm tấm ảnh của cô nhưng không còn thấy đường nữa. Nhìn cảnh chàng nhiếp ảnh gia dắt chú cún đi ngang qua người yêu cũ nhưng không hề hay biết, nhiều bạn nữ đã không cầm được nước mắt.

Tình yêu của Đức Ky-tô yêu nhân loại không phải cho đi một phần thân thể mà là cho đi chính bản thân mình hiến tế vì người mình yêu. Khi Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Này là Mình Thầy”. Đó là một hình ảnh trao ban trọn vẹn tình yêu. Ngài không giữ lại điều gì cho riêng mình. Ngài không toan tính cho riêng mình. Ngài làm tất cả để người mình yêu được hạnh phúc.

Tình yêu của Đức Ky-tô cao đẹp hệ tại ở việc dám chết cho người mình yêu. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng. Ngài chịu sát tế như con chiên hiền lành chịu chết đền tội thay cho nhân gian. Ngài không có tội mà lại gánh lấy hậu quả của tội là đau khổ và sự chết. Ngài thực sự vì yêu mà gánh lấy bao nhục hình.

Thánh lễ thứ Năm Tuần Thánh hôm nay gợi nhớ lại cho chúng ta từng cử chỉ đầy yêu thương của Chúa. Một tình yêu khiêm hạ đến nỗi dám cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Một tình yêu trao hiến đến trao cả thân thể làm của ăn nuôi  dưỡng con người. Một tình yêu hiến dâng để có thể cho đi chính mình làm hiến tế hy sinh cứu đời.

Xin cho chúng ta khi chiêm ngắm tình yêu hiến dâng của Chúa cũng biết mặc lấy Đức Ky-tô để có thể trao ban tình yêu của mình cho anh em. Xin cho chúng ta dám cởi bỏ tính ích kỷ chỉ lo cho bản thân để sống yêu thương và phục vụ mọi người như Thầy Giê-su. Xin cho chúng ta biết theo gương Thầy Giê-su bẻ đời mình như tấm bánh trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen

 

22. Thứ Năm tuần thánh--Lm. Giuse Trực

Chiều hôm nay có thể gọi một cách văn hoa là “chiều ly biệt”. Nhưng tôi thích gọi là “buổi chiều xé nát con tim”. Quả thật buổi chiều hôm nay làm cho con tim của Chúa phải nhiều lần chết nghẹt vì xúc động. Tất cả chỉ vì Ngài quá yêu thương: “Đức Giêsu biết giờ của người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thượng họ đến cùng” (Ga 12, 1).

Trước tiên là sự kiện Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể. Đây là sáng kiến độc nhất vô nhị trong toàn thể vũ trụ này. Chỉ một mình Thiên Chúa với tình yêu thương mới có thể nghĩ ra cách thức để được ở lại với con người. Đây là một tình yêu hiến mình.

Kế đến là việc Chúa Giêsu lập bí tích Truyền chức thánh để thông ban chức linh mục cho một số người Chúa tuyển chọn, với mục đích có người là hình ảnh của Chúa ở trần gian này, và thực hiện hành động ban phát lương thực là chính Mình Máu Ngài để nuôi sống những con người yêu thương, muốn sống gắn bó với Ngài. Đây là một tình yêu trao ban.

Cuối cùng là hành động quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ như một người đầy tớ phục vụ cho chủ mình. Chúa muốn để lại cho các môn đệ và mỗi người chúng ta bài học về tình yêu phục vụ.

Lạy Chúa, đứng trước tình yê hiến mình, tình yêu trao ban và tình yêu phục vụ, con được mời gọi đáp trả lại tình yêu của Chúa để trở nên giống Chúa trong việc hy sinh hiến mình, trong việc trao ban tình yêu và phục vụ tha nhân. Con hy sinh cho gia đình con. Con trao ban hết tình yêu của con cho những người mà con gặp gỡ, nhất là những người thân trong gia đình. Con phục vụ hết thảy mọi người trong môi trường con đang sống. Lạy Chúa xin cho con biết lấy tình yêu đáp đền tình yêu. Cũng xin cho con biết lấy tình yêu xóa bỏ hận thù và khơi thông tình thương mến.

 

23. Dạ tiệc ân tình--Trầm Thiên Thu

Lễ Vượt Qua hay lễ Quá Hải (Anh ngữ là Passover) là lễ quan trọng nhất của người Do Thái, kéo dài một tuần. Chiều ngày 14 tháng Ni-xan (khoảng tháng Ba, tháng Tư dương lịch), người ta sát tế chiên (cừu) tại đền thờ, rồi tư tế lấy máu chiên mà đổ dưới chân bàn thờ. Khi đêm xuống, người ta sẽ ăn tiệc Chiên Vượt Qua theo gia đình hay theo nhóm, rồi lấy chút máu chiên bôi lên cửa nhà.

Lễ Vượt Qua được cử hành như một cuộc tưởng niệm nhằm giúp mỗi người sống lại kinh nghiệm của cha ông họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập xưa kia. Trong bữa tiệc, người ta ăn thịt chiên với bánh không men và rau đắng (Xh 12:14), ngoài ra, họ cũng uống với nhau bốn chén rượu đã được vị chủ tọa bữa tiệc chúc lành để kỉ niệm bốn lời hứa của Thiên Chúa với dân Do Thái: [1] Ta sẽ đem các ngươi ra từ ách của Ai Cập; [2] Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi cảnh làm tôi mọi chúng; [3] Ta sẽ giương cánh tay mà chuộc lấy các ngươi; [4] Ta sẽ lấy các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi. Cuối bữa tiệc này, mọi người cùng hát Thánh Vịnh.

Bữa Tiệc Ly là Dạ Tiệc Vượt Qua, Chúa Giêsu dùng bữa với các môn đệ. Trong bữa tiệc này, Ngài làm hai điều quan trọng và kỳ lạ: thiết lập Bí Tích Thánh Thể và Ngài đích thân rửa chân cho các môn đệ. Cả hai hành động đó là dấu chỉ của yêu thương, của lòng thương xót.

Vậy yêu thương là thế nào? Yêu thương là CHO hay NHẬN? Có ai cân-đo-đong-đếm được tình yêu đâu mà sao biết kẻ yêu ít, người yêu nhiều?

Xưa nay, từ cổ chí kim, chưa có một định nghĩa nào về tình yêu trọn vẹn nhất khiến người ta thỏa mãn. Chữ Yêu rất đơn giản mà cũng rất nhiêu khê. Chỉ có một tình yêu đích thực nhưng được nhìn với nhiều lăng kính, mỗi người yêu mỗi cách và mức độ cũng rất khác nhau. Nói chung, yêu là CHO nhiều hơn NHẬN, yêu đến quên mình, đó mới là Tình Yêu chân chính, thế nên người ta mới nói “yêu là chết trong lòng”. Yêu là khổ, không khổ không là yêu, khổ đến “chết” mới là yêu! Không chỉ “chết trong lòng” mà chết thật, vì có những người đã dám liều chết vì quá yêu!

Việt Nam có chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ và chuyện tình Lan và Điệp, còn Tây phương có chuyện tình Romeo và Juliet. Những chuyện tình thật lãng mạn và đẹp nhưng cũng đầy chất bi thương!

Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, nên người ta cương quyết “thà chịu khổ hơn chịu lỗ”. Những người đó “ngon” thật và can đảm thật! Người ta còn gọi đó là “thú đau thương”. Đau thương mà lại “thú vị”, yêu như điên, đó mới là yêu thật lòng, vị tha chứ không vị kỷ. Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Sau những ngày tháng hoang đàng, Thánh Giám mục Tiến sĩ Augustinô đã hối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng”, và rồi thánh nhân nói thêm: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”. Một mức độ kỳ lạ: giới hạn của yêu thương là yêu-không-giới-hạn!

Yêu thương liên quan hai động thái cần thiết: Vâng Phục và Phục Vụ.

VÂNG PHỤC VÌ YÊU THƯƠNG

Trình thuật Xh 12:1-8, 11-14 cho biết các chi tiết: Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon trên đất Ai Cập: “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng”. Luật cũ chú trọng cách sống tự nhiên của con người, và cách hành lễ cũng “thực tế” hơn ngày nay, nhưng đó là thể hiện sự vâng lời – vâng lời Chúa nghĩa là yêu mến Chúa.

Học ăn, học nói, học gói, học mở. Đầu tiên là phải học ăn. Cách ăn cũng có luật: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Cách ăn “lạ” nhất là “phải ăn vội vã”, vì đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa. Đêm ấy Thiên Chúa rảo khắp đất Ai Cập, sát hại các con đầu lòng trong đất Ai Cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai Cập. Nghe vậy chúng ta cảm thấy Chúa “dữ tợn” quá. Nhưng không, luật cũ là luật tự nhiên, những gì là “đầu tiên” được dành ưu tiên cho Thiên Chúa, gọi là “của lễ đầu mùa”, kể cả con đầu lòng. Ngày nay, một số dân tộc vẫn có cách mừng thu hoạch như lễ mừng lúa mới, lễ mừng thu hoạch,…

Vết máu bôi trên nhà là dấu hiệu vâng phục, tức là “giữ luật”, và là “dấu hiệu tình yêu”. Những người trong nhà đó sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Thiên Chúa giáng hoạ trên đất Ai Cập. Ngày đó được chọn làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Đó là luật quy định cho đến muôn đời. Luật đó là hồng ân Chúa ban. Ngài ban đủ thứ ân sủng để con người đủ sức “vượt qua” biển đời. Thiên Chúa YÊU nhiều nên CHO nhiều, còn chúng ta NHẬN quá nhiều mà yêu chẳng bao nhiêu, thế nên:

Lấy chi đáp đền Chúa đây

Vì bao ân huệ chính Ngài đã ban? (Tv 116:12)

Dù thật lòng muốn đền đáp ơn Chúa nhưng chẳng có gì để dâng, nếu có thì cũng chẳng có gì xứng đáng. Thân phận bụi tro mọn hèn cả dám thân thưa:

Con nâng chén hồng ân cứu độ

Mà xưng tụng danh Chúa mãi thôi (Tv 116:13)

Thời quân chủ, thần dân không được ngước nhìn Long Nhan, ai nhìn sẽ bị tội khi quân và phải chết. Thần dân muốn tâu trình điều gì phải quay hướng khác và không được tâu trực tiếp mà chỉ được tâu với cái “bệ rồng” Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ”. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa là Vua các vua và Chúa các chúa, thân sâu bọ chúng ta lại được diện kiến Tôn Nhan thì quả là vô cùng diễm phúc: “Trước Thánh Nhan thật là quý giá, cái chết của những ai hiếu nghĩa với Ngài” (Tv 116:15). Chúng ta chỉ là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, thế mà lại được diễm phúc thì phải ghi lòng tạc dạ thâm ân này: “Con sẽ dâng hiến lễ tạ ơn mà xưng tụng danh Chúa” (Tv 116:17), đồng thời phải chân thành tự thề hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể Dân Ngài” (Tv 116:18).

PHỤC VỤ VÌ YÊU THƯƠNG

Biết thì phải chia sẻ cho người khác, trừ khi người ta không muốn được chia sẻ. Chia sẻ là một dạng yêu thương: cho, tặng, biếu. Chính Thánh Phaolô đã xác nhận: “Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1 Cr 11:23). Rồi ngài kể lại việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm nhưThầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”, và cuối bữa thì Chúa Giêsu nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm nhưThầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11:24-25). Thánh Phaolô giải thích: “Từnay cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11:26), do đó mà chúng ta hằng ngày tuyên tín trong mỗi Thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”, hoặc “Lạy Chúa, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, chúng con loan truyền Chúa chịu chết cho tới khi Chúa đến”.

Ngay trước Lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết “giờ của Ngài” đã đến, đó là giờ Ngài phải bỏ thế gian mà về với Thiên Chúa Cha. Ngài yêu thương mọi người đến giọt Nước và giọt Máu cuối cùng, Ngài không muốn xa chúng ta, nhưng Ngài phải tuân phục Thánh Ý của Chúa Cha.

Đức Giêsu biết rõ Giuđa nghĩ gì, tính toán ra sao, và sắp làm gì. Nhưng Thánh Ý Chúa Cha nhiệm mầu. Thế nhưng, có người lập luận rằng “quỷ sứ không được cứu độ”. Giuđa bị gọi là quỷ sứ, Phêrô bị gọi là satan, mà quỷ sứ và satan có khác nhau? Sao satan được cứu độ mà quỷ sứ lại không được? Có gì lấn cấn? Thật ra chẳng ai dám phán xét, cũng chằng ai xứng đáng mà có quyền kết án ông Giuđa. Đừng chỉ “săm soi” một vài khía cạnh nào đó rồi quyết đoán. Tại sao Tội Nguyên Tổ lại được Giáo hội gọi là Tội Hồng Phúc? Thật là mầu nhiệm, vì Lòng Chúa Thương Xót lớn hơn mọi tội lỗi của cả nhân loại kia mà!

Chúa Giêsu bởi Thiên Chúa mà đến, và Ngài sắp phải trở về cùng Thiên Chúa. Do đó, trong một bữa ăn, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ngài đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Chắc hẳn môn đệ nào cũng ngạc nhiên vô cùng khi thấy Sư phụ hành động “kỳ cục nhất thế gian”.

Thế nên, khi Ngài đến chỗ ông Simôn Phêrô, ông liền thưa: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13:6). Không hề có bề trên nào dám làm chuyện “ngược đời” và “động trời” như vậy. Nghe Phêrô nói, Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13:7). Ông Phêrô chưa thể hiểu nên lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13:8a). Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13:8b). Nghe Thầy nói “không được chung phần” thì ông Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13:9). Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” (Ga 13:10). Ông Phêrô cụt hứng, chẳng khác như bị tạt nước lạnh. Rõ ràng Ý CHÚA HOÀN TOÀN KHÁC HẲN Ý LOÀI NGƯỜI. Ngài rất thâm ý nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch”.

Rửa chân cho các môn đệ xong, Ngài mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?” (Ga 13:11). Hỏi vậy thôi, chứ Ngài biết tỏng là chẳng ai hiểu, vì ông nào cũng “mắt chữ O và miệng chữ A”, cứ như trời trồng hết thảy. Thấy thế, Chúa Giêsu nói luôn: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:13-15).

Thầy mà còn rửa chân cho đệ tử, chủ mà rửa chân cho đầy tớ, thế thì chắc chắn đệ tử hoặc đầy tớ cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho đệ tử, để đệ tử cũng làm như Thầy đã làm cho đệ tử. Đó là Luật Yêu của Chúa. Luật nhẹ nhàng mà KHÔNG DỄ thực hiện, lời giản dị mà thâm thúy. Và đó cũng là điều chúng ta phải suy nghĩ, nhất là trong Tam Nhật Thánh này, vì chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta noi theo.

Chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y có hình “ngã ba”, nghĩa là có 3 hướng: Hướng lên Chúa, hướng tới tha nhân, và hướng về chính mình. Yêu Chúa hết linh hồn và hết trí khôn, yêu người như chính mình, yêu mình ít thôi – không được yêu mình thái quá (tự ái là yêu mình thái quá, là ích kỷ). Yêu có những hệ lụy quan yếu. Yêu là điều luôn có mối liên kết quan trọng: Cần thiết –> thiết tha –> tha thứ. Đó là quy-trình-yêu-thương, là vòng-tròn-thương-xót. Và một hệ lụy khác lại phát sinh: YÊU thì phải KÍNH, KÍNH thì phải NỂ, NỂ thì phải TRỌNG, TRỌNG thì phải VỌNG (mong), MONG thì thấy NHỚ, NHỚ nghĩa là YÊU. Đó là vòng-tròn-yêu bắt đầu và kết thúc bằng động từ YÊU. Chúa nhớ chúng ta và chúng ta cũng phải nhớ Chúa, mà NHỚ NGÀI thì PHẢI THI HÀNH THÁNH Ý NGÀI. Hoàn toàn hợp lý!

Cũng như khi nói về gia đình, chúng ta áp dụng danh từ kép “hiếu đễ”. Và thật kỳ lạ với chuỗi hợp lý này: HIẾU thì phải ĐỄ (nhường), NHƯỜNG thì phải NHỊN. Nhờ đó mà “trong ấm, ngoài êm”, tạo nên “tổ ấm”, tạo nên hạnh phúc gia đình. Xã hội cũng vậy. Cộng đoàn cũng thế. Nói chung, tất cả chỉ cần tóm gọn trong một chữ YÊU. Biết yêu thì biết thương, biết thương thì biết xót, đó chính là biết sống lòng thương xót của Thiên Chúa.

Lạy Thầy Giêsu chí thánh, nhân từ và giàu lòng thương xót, xin đổi mới trái tim chúng con nên giống Chúa để càng ngày càng thêm nhiều “máu yêu” hơn, nhờ đó mà chúng con có thể vừa yêu mến Ngài vừa yêu thương tha nhân, đồng thời dám sống và hành động như Ngài trong mọi hoàn cảnh. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị muôn đời. Amen.

 

24. Đỉnh cao của mầu nhiệm cứu độ là tình yêu--Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong cuộc sống, nơi các gia đình, nhất là văn phong của Việt Nam, chúng ta rất coi trọng bữa ăn. Nơi bữa ăn, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại, thường hay được giải quyết. Có những bữa ăn để chia tay; có những bữa ăn để lên đường. Chia tay hoặc lên đường thường hay để lại nhiều kỷ niệm nơi người đi và kẻ ở!

Hôm nay, Đức Giêsu quy tụ các Tông đồ là những người thân tín với Ngài trong suốt chặng đường rong ruổi loan báo Tin Mừng. Ngài quy tụ họ, để trao lại cho họ một tặng phẩm thần linh là Bí tích Thánh Thể và truyền cho các ông hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Ngài. Qua đó, như một sự hiện hữu sau khi chết, để khi còn sống, Đức Giêsu ở cùng với các ông thế nào, thì ít ngày nữa thôi, Ngài cũng hiện diện và ở lại với các ông cách vô hình nhưng trọn vẹn nơi Bí tích cao trọng là chính Thánh Thể Ngài. Mặt khác, qua bữa tiệc này, phần cuối cùng của bữa tiệc, Đức Giêsu hành động và  trăng trối những lời tâm huyết để xây dựng cộng đoàn Giáo Hội đó là: “Luật yêu thương”.

1. Một tặng phẩm cao quý được trao tặng

Nếu trong cuộc sống, hai người yêu nhau, họ thường có những lời lẽ chân tình, ấm áp để thể hiện tình yêu của mình cho người mình yêu. Khi đi xa, người ta hay trao tặng cho nhau những kỷ vật trân quý, để dù xa mặt chứ lòng thì không. Qua món quà đó, với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.

Cũng vậy, khi Đức Giêsu biết “giờ” của mình sắp trở về với Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã yêu thương họ đến cùng khi trao ban chính thân mình làm của nuôi sống môn sinh.

Chiều hôm nay, chúng ta kỷ niệm việc Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể. Đây là Bí tích cao trọng nhất trong 7 Bí tích. Cao trọng bởi vì qua Bí tích này, Đức Giêsu hiến dâng thân mình làm của  ăn của uống để nuôi sống nhân loại và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài yêu thương và yêu hết mình. Yêu đến nỗi bằng lòng chịu chết để miễn sao người mình yêu được hạnh phúc.

Thật vậy, Ngài đã trao ban chính Thân Mình làm bảo vật, để mỗi khi các Tông đồ cũng như những người tin, cử hành và tưởng nhớ, thì Ngài hiện diện cách trực tiếp nơi mầu nhiệm cử hành. Khi đó, Đức Giêsu trở nên đồng hình đồng dạng với người đón nhận, để từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Ôi, còn gì cao quý và hạnh phúc cho bằng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa với Đấng là Thiên Chúa nhưng lại chia sẻ thân phận con người với chúng ta!

Lời cầu nguyện của Đức Giêsu với Chúa Cha làm toát lên đặc tính kỳ diệu này: “ … như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21). Giáo Hội tiếp diễn ý nghĩa hiệp thông với mọi thành phần khi đã liên kết với Đức Giêsu, qua Kinh Tiền Tụng Thánh Thể: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần”.

Qua Bí tích này, mỗi người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa thông qua bản thể Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng được liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một thân thể.

2. Một dấu tích sống động được tiếp diễn

Sau khi Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể, ngài đã thiết lập Bí tích Truyền Chức liền sau đó như một sự liên hệ, liền mạch và mật thiết với nhau. Đúng thế, không thể có Thánh Thể nếu không có người cử hành Thánh Thể. Vì thế, Đức Giêsu đã trao ban thừa tác vụ đặc biệt cho các Tông đồ, để sau này, các ông sẽ đảm trách những việc làm như Đức Giêsu vừa làm cho đến ngày tận thế.

Thoạt mới nghe, chúng ta dễ tưởng lầm là Bí tích này chỉ có liên hệ hay dành riêng cho các linh mục? Nhưng không! Bí tích này liên hệ chặt chẽ với cộng đoàn, bởi vì Bí tích này thuộc về nhóm Bí tích xây dựng cộng đoàn.

Thật thế, chức vụ linh mục không phải cho bản thân mình, vì các ngài không thể tha tội cho mình, các ngài cũng không thể ban phát các Bí tích cho mình. Vì thế, linh mục là của mọi người, cho mọi người và vì mọi người.

Nếu Đức Giêsu trước kia đã đến để cho con chiên được sống dồi dào, thì ngày nay các linh mục cũng được trao ban trách vụ như thế. Ôi huyền nhiệm và cao quý vô lường! Qua Bí tích Truyền Chức, Đức Giêsu hiện diện cách trực tiếp khi các linh mục cử hành phụng vụ trong vai trò đại diện cho Đức Giêsu là Đầu của thân thể. Và, như thế, mỗi người chúng ta luôn được các ngài chăm sóc, nên không bị rơi vào tình cảnh bơ vơ, mồ côi vì không người chăn dắt. Các ngài sẽ thay mặt Chúa, thi hành việc của Chúa trong vai trò lãnh đạo, phục vụ và thánh hóa vì tình yêu.

 3. Một lời trăng trối tâm huyết muôn đời nhớ mãi

Cũng chiều hôm nay, mỗi chúng ta quây quần nơi đây, để nghe đọc lại di ngôn và lệnh truyền của Đức Giêsu về tình yêu. Lệnh truyền này mang tính khẩn trọng, người môn đệ phải có thái độ mau mắn thi hành. Vì thế, đòi hỏi một sự bất khả từ, bởi lẽ đây là điểm sáng, là cốt lõi, là bản chất thiết yếu của người mang danh Đức Kitô trong mình.

Thật vậy, Đức Giêsu không chỉ trao ban chính Thân Mình để nuôi sống nhân loại, mà Ngài còn dạy cho các Tông đồ bài học về tình yêu, để đưa các ông vào qũy đạo của chính Ngài là “yêu và yêu đến cùng”.

Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu như Thầy là yêu như thế nào? Thưa yêu như Thầy chính là trở thành người tôi tớ phục vụ, là chấp nhận chết cho người khác được sống. Không những dạy các ông bằng lời, mà Ngài còn làm gương cho các ông noi theo. Vì thế, ngay lập tức, Ngài đứng lên, cởi áo choàng, thắt lưng, lấy nước rửa chân cho từng Tông đồ trước sự ngỡ ngàng của các ông. Ngỡ ngàng là phải, vì hành vi rửa chân là việc làm của người nô lệ dành cho ông chủ. Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã làm đảo lộn vai trò và vị trí khi tự làm những việc dành cho người hầu hạ, và các Tông đồ trở nên những ông chủ.

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Đức Giêsu nói tiếp: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15). Qua hành động rửa chân cho các Tông đồ, Đức Giêsu để lại cho các ông bài học về đức khiêm nhường và phục vụ. Tuy nhiên, để thực hiện được hai nhân đức này thì cần phải có tình yêu làm động lực.

Tình yêu thương được hiện lên như một ngọn hải đăng giữa biển khơi tăm tối, giúp cho mọi người nhận ra đường để đi và đi đến nơi an toàn. Vì thế Đức Giêsu đã dạy cho các ông biết trước viễn cảnh trong tương lai khi nói: “… mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).

 4. Sống linh đạo Thánh Thể và thực hiện lời trăng trối của Đức Giêsu

Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết”  (1 Cr 11, 26).

Là người kitô hữu, chúng ta tin Chúa, yêu Chúa và đều mong muốn được ơn cứu độ, thì không có lẽ gì chúng ta không sống linh đạo Bí tích này.

Nếu muôn ngàn hạt lúa kết thành tấm bánh, bao trái nho ép thành chén rượu, tượng trưng cho sự hiệp nhất của con cái Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng phải hiệp nhất với nhau như vậy.

Muốn được như thế, tinh thần sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa, trái nho luôn mời gọi và thôi thúc chúng ta thi hành.

Trong đời sống gia đình, người chồng phải là người chồng mẫu mực, sẵn sàng hy sinh gánh vác vì tình yêu với vợ và các con. Người vợ hãy hết lòng lo cho con cái, chăm lo cho chồng và con tử tế. Con cái biết ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ… Làm được như thế, ấy là chúng ta đang thực hiện di ngôn của Đức Giêsu trong tinh thần hy sinh và phục vụ.

Nếu không yêu thương nhau, thì chẳng khác chi hạt lúa mì trơ trọi một mình, không sinh hoa trái. Nhưng yêu thương những người lân cận với mình thôi thì chưa đủ, mà phải yêu thương hết mọi người như Đức Giêsu đã yêu. Ngài đã không loại trừ Giuđa là kẻ rồi đây sẽ bán mình; không bỏ lại Phêrô là người sẽ thề sống thề chết không biết mình; không lên án và trách móc những người hại mình, mà: “Lạy Chúa, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)

Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay luôn ở bên tai, qua hành động và trong trái tim của chúng ta, để chúng ta yêu và yêu không giới hạn như Đức Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã để lại cho chúng con Bí tích kỳ diệu là chính Thánh Thể Chúa làm của ăn của uống cho mỗi chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến, tin tưởng và mau mắn loan truyền cho tới khi Chúa đến trong vinh quang. Xin cũng cho mọi suy nghĩ và hành động của chúng con được tình yêu làm căn cốt và thúc đẩy, để như Chúa, chúng con yêu rồi mới làm. Amen.

mục lục

 

25. Vì yêu, nên chấp nhận tất cả--Jos. Vinc. Ngọc Biển

(Xh 12, 1-8. 11-14; 1 Cr 11, 23-26; Ga 13, 1-15)

Chiều hôm nay, chiều mà Giáo Hội cử hành thánh lễ Tiệc Ly. Trong thánh lễ này, chúng ta thấy toát lên vẻ trầm buồn bởi cảnh ly biệt của người đi và kẻ ở!

Đức Giêsu sẽ ra đi để chịu chết chuộc tội thiên hạ. Các môn đệ sẽ ở lại để rồi mai đây sẽ tiếp bước trên con đường mà Thầy Giêsu đã đi.

Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở cảnh sầu ly chia ngả, nhưng nó còn đi xa hơn nữa để thấy được tình yêu của người ra đi và sự phản bội, bất trung của nhiều kẻ ở lại! Từ đó, chúng ta nhận ra lòng thương xót của Đấng là Chúa và là Thầy thì lớn lao vô bờ, trong khi đó, sự vô ơn, nhát đảm dẫn đến sự phản bội của người môn sinh lại cứ dần leo thang!

1. Điều tốt và xấu luôn tồn tại

Trong cuộc sống của con người, sự bất trung, vô ơn, phản bội, có lẽ luôn tồn tại song song với thời gian. Những thái độ, hành vi và lựa chọn tiêu cực ấy lại được diễn ra đây đó giữa cha mẹ với con cái; giữa vợ với chồng; giữa bạn bè, đồng nghiệp với nhau; giữa thầy với trò…, và, nhất là giữa con người với Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương ta.

Họ bội ước quên thề và phản bội với nhau có thể do động lực tiền bạc, tình cảm và chức quyền gây nên. Những sự vô ơn và phản bội như thế, dân gian người ta gọi những hạng người đó là kẻ: “Ăn cháo đá bát”; “lừa thầy phản bạn”; “qua cầu lướt ván…”.

Với Đức Giêsu, từ khi đón nhận bản tính nhân loại nơi mình, Ngài cũng là con người giống như bao người, vì thế, Đức Giêsu cũng đã từng nếm trải những chuyện như: vô ơn, phản phúc, đổi trắng thay đen, nói không thành có… đến từ những người mà Ngài làm ơn làm phúc; những người mà Ngài đã cứu sống, và, nhất là đến từ các môn đệ là những người được chính Ngài tuyển lựa để ngày đêm ở với Ngài và được Ngài dạy dỗ nhiều điều!

Sự thật cay đắng này diễn ra trong bữa Tiệc ly buổi chiều năm xưa, mà hôn nay chúng ta đang tưởng niệm.

Điều này được thấy qua những nghi thức phụng vụ, nhất là Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay.

Kinh Thánh diễn tả buổi chiều hôm nay là một buổi chiều ly biệt giữa Thầy và trò.

Khung cảnh trầm buồn ấy cộng thêm những nét chấm phá hết sức ấn tượng diễn tả sâu sắc tình yêu thương của Thầy dành cho trò. Tuy nhiên, mặt trái của bức tranh tình yêu đó lại bị những vết đen phản bội, vô ơn và bất trung xen lấn, làm cho họa tiết lộ rõ sự hỗn độn, khiến cho người thưởng thức không khỏi khó chịu và xót xa!

2. Tất cả vì tình yêu

Câu chuyện diễn tả bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, được khởi đi từ việc Đức Giêsu muốn ăn bữa tiệc vượt qua sau cùng với các môn đệ trước khi lên đường hy sinh mạng sống để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, đây là một bữa tiệc mang nhiều ý nghĩa thâm sâu.

Đỉnh điểm của buổi họp mặt hôm nay giữa thầy và trò, đó là việc Đức Giêsu loan báo: Một người trong anh em sẽ phản bội. Một trong anh em sẽ chối Thầy, và, đêm nay anh em sẽ vấp phạm vì Thầy.

Từ lời loan báo trên, Đức Giêsu đã nói rất rõ ràng cho các môn đệ biết về sự vô ơn, hèn nhát và thiếu trung thành của các ông đối với Ngài.

Nhưng ngay lúc này, các ông rất hoang mang và nhiều người không thể ngờ được là: tại sao trong nhóm của mình lại có những kẻ “được cá bẻ đăng”, rồi hèn nhát và thiếu trung thành đến vậy…!

Chính vì thế, mà họ bắt đầu nhao nhao hỏi Đức Giêsu: “Thưa thầy, có phải con không?”. Đức Giêsu không nói rõ ai sẽ là người phản bội mình, Ngài chỉ đưa ra hành động ám chỉ: Thầy chấm miếng bánh trao cho ai, thì đó là người ấy. Rồi Giuđa là kẻ đã lĩnh miếng bánh trước mặt anh em. Sau khi đã nhận miếng bánh ân tình, ma quỷ đã nhập vào y và y đã quyết định rời khỏi nơi chốn tình yêu, không gian ánh sáng để tiến về vùng tối tăm của sự ác!

Đọc tiếp trang Tin Mừng, chúng ta còn thấy sự bất trung của các môn đệ khác được tìm thấy trong biến cố tại Vườn Cây Dầu. Các môn đệ đang ở với Đức Giêsu, khi thấy toán lính đến bắt Thầy mình, thế là họ đã bỏ chạy hết. Rồi sự hèn nhát của Phêrô, vị Tông đồ trưởng được diễn ra trong dinh Thượng tế, ông đã trối Thầy trước sự đe loi của đám lính.

Tuy nhiên, dù tội lỗi của các ông có lớn thế nào đi chăng nữa, thì ngay tại phòng tiệc ly, Đức Giêsu làm một loạt những hành vi và lời nói nhằm diễn tả tình yêu của vị Thầy khả kính dành cho môn sinh, qua đó giúp cho các ông tin và đi vào mối tương quan tình yêu với Ngài.

Chính vì yêu và yêu họ đến cùng, nên Đức Giêsu đã không ngần ngại, trao ban, hiến tặng tất cả, ngay cả mạng sống của mình cho con người. Điều này được thể hiện qua việc Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể. Không dừng lại ở đó, Đức Giêsu còn muốn ở lại với loài người mọi ngày cho đến tận thế, nên liền ngay sau đó, Ngài đã thiết lập thiên chức linh mục.

Để tình yêu thương được cụ thể, nên vào cuối bữa ăn, Đức Giêsu đã làm một hành động ngược đời đến kỳ quặc, đó là quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đây là hành động của nô lệ rửa chân cho ông chủ, trò rửa chân cho thầy. Khi làm ngược lẽ tự nhiên như vậy, Đức Giêsu muốn dạy các ông bằng hành động chứ không chỉ lời nói. Điều này đã gây nên sự ngỡ ngàng tột độ, khiến Phêrô đã phải thốt lên: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?”;  “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”.

Tuy nhiên, Đức Giêsu nói với ông: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. 

Sau đó Ngài đã dạy các ông: “Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau”.

Như vậy, việc Đức Giêsu rửa chân cho các ông, Ngài muốn làm một cử chỉ sâu xa để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa với nhân loại.

Bên cạnh đó, Ngài muốn gột rửa tâm hồn các ông thực sự.

Bởi vì nơi các ông vẫn còn nhiều vấn vương bụi đời.

Nào là tranh dành quyền lực; thích được phục vụ; ăn trên ngồi trước.

Nào là chia rẽ nội bộ; nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, hám lợi và phản bội….

3. Sứ điệp Lời Chúa

Ngày nay, vẫn còn đó những con người chẳng khác gì các môn đệ là bao. Họ vẫn mang trong mình những sự kiêu ngạo, ích kỷ, chia rẽ và thiếu trung thành, phản bội và vô ơn…!

Vẫn còn đó những kẻ chỉ vì miếng cơm manh áo mà bán đứng anh em của mình cho sự ác.

Lại có kẻ miệng thì nói tin Chúa, sống chết với đức tin, đạo giáo. Nhưng khi có lợi đến, hay bị thử thách, họ sẵn sàng từ chối thuộc về Chúa để được yên thân.

Và, cũng không thiếu những kẻ “khi hay thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì lìa nhau ra”. Họ tin và theo Chúa chẳng khác gì trẻ con. Họ rất giống những người thiếu lập trường và bị hiệu ứng đám đông điều khiển!

Sứ điệp Lời Chúa và phụng vụ ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Luôn sống tâm tình biết ơn Thiên Chúa ngang qua sự kiên trì và trung thành với đức tin của mình.

Cuối cùng, hãy sống bản chất của Bí tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái; đồng thời luôn biết yêu thương nhau thật lòng như Chúa đã yêu, đó là một tình yêu bằng hành động, hướng tha, hy sinh và phục vụ.

Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, Chúa đã thể hiện tình yêu trọn vẹn của Chúa dành cho nhân loại. Xin Chúa ban cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu ấy và ra sức thi hành trong cuộc sống qua các mối tương quan với Chúa và tha nhân. Amen.

 

26. Rửa Chân-- Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

Trong những ngày này trên thế giới, có một cụm từ người ta nhắc nhiều đó là: Rửa Tay. Có một bài hát ở Việt nam ra đời trong dịp đại dịch này có một vũ điệu được gọi là vũ điệu rửa tay. Rửa tay thường xuyên bằng nước sát khuẩn để tránh bị lây nhiễm Covid 19. Hôm nay, thứ Năm tuần thánh, tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập bí tích Thánh thể và chức Linh mục, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một hành động tuyệt hảo của Thầy chí thánh Giêsu.

Trong những ngày này trên thế giới, có một cụm từ người ta nhắc nhiều đó là: Rửa Tay. Có một bài hát ở Việt nam ra đời trong dịp đại dịch này có một vũ điệu được gọi là vũ điệu rửa tay. Rửa tay thường xuyên bằng nước sát khuẩn để tránh bị lây nhiễm Covid 19. Hôm nay, thứ Năm tuần thánh, tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập bí tích Thánh thể và chức Linh mục, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một hành động tuyệt hảo của Thầy chí thánh Giêsu. Đó là hành động rửa chân cho các môn đệ. Thầy rửa chân cho trò. Đó quả là một hành động chưa từng có trong lịch sử con người. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của hành động này và rút ra bài học cho cuộc sống của chúng ta hôm nay. Lời Chúa nói với Phêrô hẳn phải là lời chúng ta cần ghi nhớ: Nếu Thầy là Chúa là Thầy mà Thầy còn rửa chân cho anh thì anh em phải rửa chân cho nhau.

Trước hết, về mặt thể lý, Rửa chân là một việc làm hết sức cần thiết cho sức khỏe của chúng ta. Chúng ta cùng nhau liệt kê ra đây ít là 4 tác dụng của việc rửa chân theo các nhà chuyên môn trong ngành y tế.

Thứ nhất là giúp loại bỏ mùi hôi khó chịu. Rửa chân thường xuyên và đúng cách giúp loại bỏ bụi bẩn, tế bào da chết, giảm lượng mồ hôi tích tụ trên da sau ngày dài. Đặc biệt, tẩy tế bào da chết – nơi ẩn nấp của vi khuẩn – giúp giảm nhiễm trùng da, ngăn ngừa sự phát triển của nấm, mụn cóc, vết chai sạn. 

Thứ hai là giảm thiểu các vấn đề đau nhức xương. Gan bàn chân có mối liên hệ mật thiết với đầu gối, hông và lưng. Gan bàn chân có nhiều hệ thần kinh, việc không chăm sóc đúng cách, không khử khuẩn thường xuyên khiến bạn dễ mắc các vấn đề ngoài da. Chân đau ảnh hưởng nhiều đến dáng đi, về lâu dài có thể gây những tác động không tốt đến các khớp chân, cột sống và cơ bắp.

Thứ ba là hỗ trợ quá trình lưu thông máu. Bàn chân là trái tim thứ hai. Việc rửa chân mỗi ngày là cách tuyệt vời thúc đẩy quá trình lưu thông máu. Lưu thông máu kém có thể gây ra các vấn đề thiếu oxy, hạn chế sự phát triển cơ bắp, gây nên đau cơ, cứng khớp, tê chân. Việc loại bỏ vi khuẩn, thường xuyên ngâm chân với nước ấm rất quan trọng.

Thứ tư là giúp ngủ ngon. Chăm sóc và massage chân mỗi ngày khiến bàn chân trở nên mềm mại, kích thích các dây thần kinh, tạo cảm giác thư thái, từ đó, chúng ta sẽ có giấc ngủ ngon hơn.

Tiếp đến, về mặt thiêng liêng, việc rửa chân giúp chúng ta nhiều bài học quý giá.

Bài học thứ nhất là sự khiêm nhường. Khi Chúa Giê-su quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ, Ngài đã nêu gương khiêm nhường cho các ông. Chẳng có thầy nào rửa chân cho đồ đệ của mình cả. Xưa nay chúng ta chỉ nghe nói đầy tớ rửa chân cho chủ, môn đệ rửa chân cho thầy. Không bao giờ lại có chuyện ngược lại. Đức Giê-su đã làm điều ngược lại để dậy các môn đệ và toàn thể nhân loại rằng từ đây: người làm lớn phải làm người hầu hạ; người đứng đầu phải trở nên người phục vụ anh em. Không có ai là lớn hay bé. Tất cả là anh em con cùng một Cha trên trời. Tất cả đều bình đẳng và ngang hàng với nhau.

Bài học thứ hai là sự tự hủy chính mình. Khi quỳ gối xuống rửa chân cho môn đệ, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta rằng con người chúng ta cần phải tan chảy. Bản ngã luôn khiến con người kiêu ngạo. Càng có chức vụ cao, càng có nhiều kiến thức, con người càng trở nên cao ngạo. Bản ngã sẽ khiến con người trở nên mù quáng. Sự tối tăm càng trở nên dầy đặc hơn khi con người tự đồng hóa bản thân với chức vụ và quyền hạn mà mình có được. Con người sẽ chẳng bao giờ còn biết mình là ai nữa. Quỳ xuống rửa chân cho người khác bằng tất cả con tim yêu mến, cái tôi của chúng ta sẽ tan chảy. Con người hóa ra không. Nhưng chính khoảnh khắc đó, tâm hồn chúng ta lại tràn ngập bình an. Một thứ ánh sáng kỳ diệu ùa vào khiến chúng ta cảm thấy rùng mình. Không phải là sự khiếp sợ nhưng là một cảm giác an bình vô tận.

Bài học thứ ba là tạo ra một thế giới tràn ngập tình yêu thương. Đức Giêsu bảo với Phêrô rằng anh em phải rửa chân cho nhau. Rửa chân cho nhau là một nghĩa cử cao đẹp. Nó tạo ra một mối giây liên kết thiêng liêng, một mối giây tình yêu nồng nàn. Chồng rửa chân cho vợ, vợ rửa chân cho chồng sẽ tăng thêm tình yêu giữa hai người. Tình yêu của cha mẹ sẽ tỏa lan sang con cái. Con cái được cha mẹ rửa chân khi còn bé, lớn lên chúng rửa chân cho cha mẹ. Tình yêu và mối giây liên kết càng trở nên khăng khít hơn. Người đứng đầu một cơ quan, một tổ chức quỳ xuống rửa chân cho nhân viên của mình. Điều đó chắc chắn sẽ đánh động con tim của mỗi người. Chỉ một hành động rửa chân, chúng ta sẽ làm thế giới thay đổi.

Cảm tạ Chúa đã để lại cho nhân loại những bài học thật quý giá khi rửa chân cho các môn đệ. Xin cho chúng con hàng ngày biết rửa chân cho nhau để cuộc đời này chan chứa niềm vui và an bình. Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Amen.

 

27. Suy niệm thứ Năm Tuần Thánh--Lm. Anthony Trung Thành

Chiều hôm nay là buổi chiều của tình yêu. Tình yêu của một vị Thiên Chúa đối với nhân loại. Đây là một tình yêu cao cả, một tình yêu tròn đầy. tình yêu đó được thể hiện qua ba việc làm của Đức Giêsu: Rửa chân, lập phép Thánh Thể và chức linh mục. Cả ba việc làm này đều hết sức quan trọng và liên hệ mật thiết với nhau: Linh mục là Đức Kitô thứ hai, Thánh Thể là Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô và rửa chân là sứ mạng của Đức Giêsu và cũng chính là sứ mạng của linh mục.

Vì linh mục (Đức Kitô thứ hai) là người cử hành thánh lễ làm nên Thánh Thể và tiếp tục sứ mạng “rửa chân” như lời Đức Giêsu đã truyền. Chính vì thế, buổi chiều hôm nay chúng ta hãy nhớ cầu nguyện cách đặc biệt cho các linh mục.

Trước hết, chúng ta cầu nguyện cho có nhiều linh mục: Theo Niên giám thống kê của Giáo Hội năm 2015, có 5.304 giám mục, 415.656 linh mục. Trên toàn cầu, con số linh mục chịu chức đã tăng 0,83% trong các năm từ 2010 đến 2015. Tuy nhiên, hơn một nửa các cộng đồng của Giáo hội Công Giáo trên thế giới không có linh mục trú sở. Giáo phận Xingú ở vùng Pará, Ba Tây, chẳng hạn, có 800 giáo xứ trong một khu vực truyền giáo xét về lãnh thổ lớn bằng nước Đức, nhưng chỉ có 27 linh mục, điều này có nghĩa hơn 2 phần 3 tín hữu chỉ được tham dự thánh lễ Chúa Nhật 2 hoặc 3 lần trong một năm. Chính vì thế, chúng ta cầu nguyện cho có thêm nhiều linh mục để đáp ứng nhu cầu của các tín hữu. 

Đồng thời chúng ta cũng cầu nguyện cho các linh mục trở thành những linh mục như lòng Chúa mong muốn. Đó là cầu nguyện cho các linh mục chu toàn sứ mạng mà Chúa và Giáo hội trao phó. Linh mục có ba sứ mạng chính: Sứ mạng Ngôn sứ, sứ mạng tư tế và sứ mạng mục tử.

Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục chu toàn sứ mạng Ngôn sứ: Trong ngày truyền chức, Đức Giám Mục nhắn nhủ các tiến chức rằng: “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và sống điều con dạy.” Vì vậy, việc đọc, suy niệm, giảng dạy và sống lời Chúa phải là bổn phận hàng đầu của linh mục. Linh mục phải rao giảng lời Chúa với tinh thần trách nhiệm. Linh mục phải rao giảng lời Chúa lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Thánh Phaolô đã nói: “Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện, hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ”. Linh mục rao giảng lời Chúa trong nhà thờ, rao giảng lời Chúa nơi các lớp giáo lý, rao giảng lời Chúa khắp mọi nơi khi cần thiết. Linh mục rao giảng lời Chúa cho những người có đạo, rao giảng lời Chúa cho những người lương dân, rao giảng lời Chúa cho những người chống đối, rao giảng lời Chúa cả những khi bị cấm cách, bắt bớ. Chính các Tông đồ ngày xưa đã làm như vậy: Trước thượng hồi đồng Do Thái cấm không cho các Tông đồ rao giảng về danh Đức Giêsu nữa, Thánh Phêrô và Thánh Gioan đã nói: “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra”. Vì sứ mạng Ngôn sứ, nên nhiều linh mục vẫn can đảm nói thẳng nói thật để lên án những bất công trong xã hội, bênh vực cho công lý và sự thật cho dù phải chịu bách hại, bắt bớ, thậm chí có khi nguy hiểm đến tính mạng của mình.

Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục chu toàn sứ mạng tư tế: Tất cả các Kitô hữu là tư tế cộng đồng, còn các linh mục là tư tế thừa tác của Đức Kitô. Linh mục thi hành Chức tư tế qua việc cử hành các màu nhiệm thánh. Đó là cử hành phụng vụ, nhất là phụng vụ các Bí tích. Các Bí tích là máng chuyển thông ơn Thiên Chúa. Ơn Thiên Chúa qua Bí tích bị khóa lại, chỉ có linh mục mới có thể mở ra được. Vì thế, Thánh Gioan Viannay khẳng định rằng: “Nếu không có linh mục, thì sự thương khó và sự chết của Chúa không giúp gì cho ta.” Ngài nói: “Nếu trong rương có đầy vàng mà không có ai mở ra, nào có ích gì? Nếu không có linh mục, sẽ không có Bí tích giải tội, không có Mình Thánh Chúa… Ai là nguyên cớ để bánh trở nên Mình Thánh Chúa? Ai thanh tẩy tâm hồn ta? Ai dọn linh hồn người chết ra đi thanh thản… nếu không phải là linh mục?”

Linh mục cần thiết như thế đó. Linh mục cần cho linh mục. Linh mục cần cho mọi người. Nhờ linh mục, ơn thánh qua các Bí tích tuôn chảy đến với con người. Vì vậy, chúng ta cầu xin cho các linh mục thi hành tốt nhiệm vụ tư tế, để các Bí tích mang lại hiệu quả dồi dào cho mỗi người chúng ta. Đồng thời, mỗi chúng ta cũng cần sống đầy đủ ý nghĩa của các Bí tích, bằng cách: Chuẩn bị xa, dọn mình gần và còn kéo dài ơn Bí tích sau khi lãnh nhận.

Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục chu toàn sứ mạng mục tử: Linh mục luôn được gọi là người của đoàn chiên. Được xức dầu Thánh Thần, như Đức Kitô là Đầu và là mục tử, linh mục được sai đến với mọi người trong tư cách là mục tử tốt lành của đoàn chiên. Vì thế, noi gương Đức Kitô - Thủ lãnh các mục tử, linh mục có trách nhiệm yêu thương gắn bó, lo lắng, tận tuỵ và hy sinh vì đoàn chiên. Linh mục đến là để chiên được sống và sống dồi dào. Đoàn chiên này bao gồm cả những tín hữu lẫn những người chưa gia nhập Hội Thánh. Vì vậy, linh mục luôn cần có Đức Ái mục vụ. Với Đức Ái mục vụ, linh mục diễn tả hành vi và phong cách của Đức Kitô mục tử đến chỗ tận hiến mình để mưu ích cho đoàn chiên. Thái độ căn bản của người mục tử là luôn tin tưởng vào sứ mạng của mình: Làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Sứ mạng này được thực hiện trong hy sinh thập giá và chắc chắn sẽ kết trái trong vinh quang phục sinh. Có tin tưởng vào sứ mạng, linh mục mới phấn khởi thi hành tác vụ tôi tớ và mới dám liều mạng sống mình vì Chúa và vì đoàn chiên.

Mặc dù linh mục được lãnh nhận những sứ mạng cao cả như vậy, nhưng linh mục cũng là con người với những yếu đuối của họ. Nói theo kiểu Thánh Phaolô, những sứ mạng cao cả ấy lại chứa đựng trong một chiếc bình sành dễ vỡ là thân xác linh mục. Chính vì vậy, ngoài việc cố gắng nỗ lực của bản thân, linh mục cần lời cầu nguyện và sự giúp đỡ của mọi thành phần dân Chúa. Cầu nguyện cho các linh mục chu toàn sứ mạng của mình. Cầu nguyện cho các linh mục thực sự là những linh mục thánh thiện. Chân phước linh mục Antone Chevrier (Pháp) đã nói:

- Xin hãy giúp tôi xây dựng một ngôi thánh đường. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cứu được thế giới.

Người ta ngạc nhiên bèn hỏi:

- Thưa Cha, ngôi thánh đường nào vậy?

Ngài nói tiếp:

- Tôi muốn làm hết sức để xây một ngôi thánh đường mà nền móng là những linh mục thánh thiện, các cột đỡ cũng là những linh mục thánh thiện, nhà tạm cũng là những linh mục thánh thiện, tòa giảng cũng là những linh mục thánh thiện và bàn thờ cũng là những linh mục thánh thiện.

Chỉ có ngôi thánh đường này mới cần thiết cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc!

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã thiết lập chức linh mục để ở lại với chúng con. Xin cho các linh mục biết chu toàn các sứ mạng của mình, trở thành những linh mục thánh thiện, hầu mưu ích cho dân Chúa. Amen!

 

28. Suy niệm thứ Năm Tuần Thánh--Lm Andre Bé, GPVL

Một em bé gái mồ côi cha mẹ, sống với bà ngoại, hai bà cháu sống trong một căn gác nghèo nàn. Một đêm nọ, căn gác bị hỏa hoạn, bà ngoại bị thiệt mạng khi cứu đứa cháu. Láng giềng gọi cứu hỏa tới, còn họ chỉ biết bó tay đứng nhìn ngọn lửa đang án ngữ mọi lối ra vào.

Bỗng em bé gái xuất hiện trên cánh cửa sổ của căn gác và kêu cứu, nhưng đội cứu hỏa chưa đến, và cũng không ai dám liều mình đi vào căn nhà. Thình lình, có một người đàn ông xuất hiện với một chiếc thang, ông lao vào ngôi nhà và mất hút trong đó. Một lúc sau ông trở ra với bé gái trên tay, ông trao nó cho đám đông và biến mất.

Một tuần lễ sau, ông trưởng khu phố cho tổ chức một cuộc họp, để xem có ai nhận đứa bé về nuôi: Một cô giáo giơ tay xin nhận nuôi và dạy dỗ em nên người, đồng thời một chủ nông trại giàu có cũng ngỏ ý nhận nuôi.

Nhiều người khác cũng giơ tay biểu lộ cùng một ý muốn.

Cuối cùng người giàu có nhất khu phố nói: “Tôi có thể mang lại cho em bé này tất cả những tiện nghi mà quý vị vừa nêu, cộng với tiền bạc và tất cả những gì tiền bạc có thể mua được”.

Trong khi đó, em bé gái lắng nghe, nhưng không để lộ một phản ứng nào, mắt em chỉ biết cúi nhìn xuống đất. Cuối cùng, người chủ trì buổi họp mới lên tiếng: “Còn ai muốn nói gì nữa không?”

Bấy giờ, từ cuối hội trường, có một người đàn ông tiến lên, dáng vẻ chậm chạp và nặng nề. Ông tiến đến gần đứa bé, ông dang cánh tay ra, mọi người đều thấy rõ vết cháy nám trên hai cánh tay ông.

Em bé gái nói như thét: “Đây là người đã cứu tôi” và em nhảy tới bá lấy cổ ông, áp mặt vào vai ông, khóc thổn thức. Rồi em lại ngước mắt nhìn ông mỉm cười, những giọt lệ lăn nhẹ trên đôi má ửng hồng của em.

Người Tây phương thường nói: “Hành động hùng hồn hơn là lời nói”. Điều này càng đúng trong tình yêu. Tình yêu vốn là một cái gì không thể diễn tả bằng lời nói suông, mà chỉ có thể bày tỏ bằng hành động. Thật vậy, một giờ đồng hồ diễn giải về tình yêu không bằng một cử chỉ yêu thương, dù rất nhỏ mọn.

Đó chính là cung cách mạc khải của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng cả cuộc sống, nhất là bằng cái chết đau thương trên thập giá. “Chết để nên lời”, quả thực cái chết của Chúa Giêsu là lời tỏ tình cuối cùng và trọn vẹn nhất của Thiên Chúa cho con người.

Trong ngày thứ 5 Tuần Thánh, nhằm tỏ bày cho các môn đệ thấy mình yêu thương họ đến mức nào, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ biểu trưng, là quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ.

Cử chỉ ấy cũng chưa bày tỏ hết lòng yêu thương vô bờ của Thiên Chúa, nên người đã nghĩ ra một sáng kiến vô cùng độc đáo. Đó là biến bánh rượu trở nên máu thịt Người, để Người được ở lại cùng chúng ta mãi mãi, cho đến tận thế.

Quả thật, tình yêu bao la của Chúa không ai hiểu thấu, chúng ta chỉ còn biết suy phục kính tôn và suốt đời cảm mến tri ân.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu thương chúng con, là để chúng con lấy đó làm gương mà yêu thương nhau. Xin Chúa gia tăng lòng mến trong chúng con, để khi nhìn vào chúng con, những người không phải là Kitô hữu hiểu rằng bác ái là gia bảo của chúng con. Amen!

 

29. Sự vô cảm đến nhẫn tâm của con người--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Trong sứ điệp mùa chay 2015, Đức Thánh Cha Francis cảnh báo về lối sống đang diễn ra trong xã hội và thế giới hôm nay. Đó là lối sống dửng dưng vô cảm, thiếu quan tâm đến người khác. Ngài nhắc lại câu chuyện Cain và Abel trong Cựu Ước. Cain vì ghen tỵ, nghĩ là Thiên Chúa thương Abel hơn mình, nên đã tìm cách thủ tiêu Abel. Sau khi gây ra điều ác, Cain lẩn trốn Thiên Chúa, nhưng ánh mắt của Thiên Chúa vẫn dõi theo anh. Chúa hỏi anh: Cain ơi! Em ngươi đâu? Cain đã trả lời hết sức nhẫn tâm: Tôi không biết! Tôi không phải là người canh giữ em tôi!

Đức Thánh Cha cho thấy sự vô tâm, vô cảm đang ảnh hưởng trên nhiều cá nhân. Hơn nữa, nó còn mang tầm mức xã hội, quốc gia và thế giới. Nó thể hiện qua việc con người chỉ lo tìm kiếm phần lợi về cho mình mà không quan tâm đến hậu quả mình gây ra hoặc những điều đang xảy ra cho anh em. Lý do là vì khi con người cảm thấy an toàn, thoải mái trong sự hưởng thụ của mình, thì người ta quên những vấn đề của người khác cùng những đau khổ, bất công mà họ phải chịu… Những lúc ấy, con người rơi vào tình trạng dửng dưng.

Thái độ ích kỷ, dửng dưng trở nên hết sức nguy hiểm khi trở thành một lối sống trong xã hội. Ngày nay, con người tỏ ra dửng dưng với các sự kiện đang xảy ra, coi thường chân lý và sự thật, không lên tiếng phản đối những bất công để bảo vệ công lý. Từ dửng dưng với tha nhân sẽ dẫn đến dửng dưng với Thiên Chúa.

Bài thương khó hôm nay cho thấy tình yêu hy sinh đến cùng của Thiên Chúa. Vì yêu con người, muốn cho con người hạnh phúc, Chúa Giêsu đã chấp nhận một cuộc hành hình đau đớn và cuối cùng là cái chết nhục nhã trên thánh giá. Cũng qua bài thương khó này, tác giả còn cho thấy sự dửng dưng, vô cảm của con người, của xã hội trước bản án bất công mà giới lãnh đạo đã cố tình áp đặt trên một người công chính.

Trước hết là sự dửng dưng, vô cảm của các môn đệ. Các ông là những người gần Chúa Giêsu nhất, đáng lẽ các ông phải là người hiểu và cảm thông với Chúa hơn mọi người. Thực tế thì ngược lại, các ông chỉ quan tâm đến bản thân, mà không hề đồng cảm với Chúa Giêsu khi Ngài phải đối diện với cuộc thương khó. Trong lúc Chúa đau khổ đến nỗi có thể chết được, thì các tông đồ vẫn còn say trong giấc ngủ, mắt các ông còn mơ màng. Khi Giuda dẫn người Do Thái đến bắt Chúa, Chúa Giêsu hết sức bênh vực cho các tông đồ, Ngài còn đề nghị với chúng: Các anh bắt tôi thì cứ bắt, nhưng hãy để cho những người này đi. Còn các tông đồ như vừa giật mình thức giấc, các ông phản ứng một cách yếu ớt. Cuối cùng, tất cả đều bỏ trốn, mặc cho Chúa Giêsu một mình bị quân dữ bắt trói và lôi đi.

Sự vô tâm của Giuda đã dẫn đến sự nhẫn tâm, tàn ác khi anh ta vì chút ít tiền, đã chấp nhận làm môi giới để quân lính bắt thầy mình, đẩy thầy vào con đường chết. Biết trước thầy sẽ bị bắt, nhưng anh vẫn thản nhiên bước đến chào và hôn thầy. Cái hôn này không còn là dấu chỉ biểu lộ tình yêu thương nồng ấm, nhưng đã trở thành cái hôn lạnh lùng, thành dấu chỉ của sự phản bội. Việc làm này của Giuda đã góp phần làm tổn thương Chúa Giêsu, làm cho đau khổ của Ngài không chỉ là nỗi đau thể xác, mà còn là nỗi đau thấu trong tâm hồn khi bị phản bội bởi chính người mình yêu quý.

Thứ đến là sự dửng dưng, vô cảm của những người lãnh đạo Do Thái. Thánh Gioan cho thấy, những người lãnh đạo chỉ muốn tìm mọi cách để đạt được mục đích của mình là loại trừ Chúa Giêsu. Vì thế, họ đã bất chấp công lý, từ chối sự thật. Họ biết rõ Chúa Giêsu không làm gì sai trái. Họ muốn giết Chúa chỉ vì Ngài đã lên tiếng bênh vực chân lý, chỉ ra những sai trái của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu. Hơn nữa, các thượng tế và luật sĩ đã coi mình như những người nắm giữ giáo lý, sở hữu chân lý. Vì thế, họ không chấp nhận một người nào khác nói về Thiên Chúa. Vậy nên khi Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài nói về một Thiên Chúa là cha yêu thương, là Thiên Chúa nhân từ, thì các thương tế và luật sĩ đã tìm cách loại trừ Chúa. Họ thản nhiên tuyên bố: Nó phải chết!

Từ các thượng tế và luật sĩ, sự dửng dưng vô cảm đã lan truyền đến dân chúng. Trong số những người đứng biểu tình, la hét trước dinh Philatô đòi giết Chúa Giêsu, có nhiều người đã từng biết Chúa Giêsu, nghe Ngài giảng dạy. Thậm chí, nhiều kẻ đã từng được ăn bánh hoặc được hưởng phép lạ Chúa làm cho họ. Thế nhưng, trước dinh Philatô, họ thản nhiên kêu gào: Giết đi! Giết nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá! Sự dửng dưng, vô cảm của đám đông dân chúng đã trở thành nhẫn tâm, thành dã man khi họ quyết tâm loại trừ người công chính là Chúa Giêsu để chấp nhận kẻ gian ác là Baraba. Họ chấp nhận từ chối Thiên Chúa để làm nô lệ cho đế quốc khi họ kêu gào: Chúng tôi chỉ có một vua là Cesare! Cuối cùng, họ hồ hởi đi theo để xem một con người chịu đau khổ, bị hành hạ và bị kết án tử hình giống như thể mình là những người vô can. Trong đám đông dân chúng, có kẻ còn buông những lời độc địa, mỉa mai Đấng đã từng làm ơn cho mình.

Con người thường tỏ ra dửng dưng, vô cảm và đối xử nhẫn tâm với nhau, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ như thế. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người và những đau khổ của họ. Thiên Chúa đã nhìn thấy con người đang phải đau khổ trong tội và bị kìm hãm, trói buộc bởi ma quỷ. Ngài đã tìm đến với con người, xoa dịu những đau khổ thể xác, chữa trị những vết thương trong tâm hồn và giành lại tự do, hạnh phúc cho con người.

Mặc dù chịu một bản án bất công và dã man nhưng Ngài không một lời than trách. Ngài vẫn tạo những cơ hội giúp con người nhìn lại đời sống và hành động của mình. Ngài đã đặt cho các tông đồ câu hỏi để giúp các ông thức tỉnh: Đến giờ này mà anh em còn ngủ được sao? Ngài cũng hỏi Giuda: Ngươi định dùng cái hôn để nộp con người sao? Trong lúc các môn đệ bỏ trốn hết vì sợ, Chúa Giêsu vẫn nhớ đến các ông và tin tưởng ở các ông. Ngài đã trả lời cho thầy thượng tế rằng: Điều tôi đã nói, ông cứ hỏi những người đã nghe tôi. Họ biết tôi đã nói gì.

Trên cây thập giá, khi bị treo cùng với hai tên trộm, Chúa Giêsu vẫn quan tâm tới lời cầu xin của tên trộm lành: Khi nào về Nước Trời, xin nhớ đến tôi! Chúa Giêsu đã hứa với anh: Ngay hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi. Ngài quan tâm đến những tên lính, vì mệnh lệnh mà hành khổ Ngài, bằng lời cầu xin: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm không biết! Trong giờ phút đau khổ nhất, Chúa Giêsu còn quan tâm đến Mẹ Maria và các môn đệ khi trao phó Mẹ cho Thánh Gioan: Đây là con của Bà và đây là Mẹ con!

Nghe bài thương khó của chúa Giêsu, chúng ta nhận ra rằng: Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, chỉ có con người thường dửng dưng, vô cảm với nhau và dửng dưng, vô cảm với Thiên Chúa. Sự dửng dưng, vô cảm ấy bắt đầu từ lối sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân, đến lợi ích cá nhân mà bỏ quên người bên cạnh. Lối sống này cũng đang diễn ra ngay trong các gia đình, khi các thành viên chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến những người khác. Có nhiều người cha, người mẹ hoặc con cái bị bỏ quên trong gia đình, bị gạt ra khỏi sự quan tâm, chăm sóc, có khi còn lạnh lùng gây đau khổ cho nhau. Trong xã hội, nhiều người đã cố tình làm ngơ trước sự dữ và ác độc. Nhiều người đã cộng tác với những bất công mà loại trừ những anh chị em đau khổ.

Nguyên nhân sâu xa của lối sống dửng dưng này là vì con người dửng dưng với Thiên Chúa, nên họ cũng dửng dưng, vô cảm với anh em. Một khi con người loại trừ Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mình thì chắc chắn sự dữ và sự ác sẽ đến trong tâm hồn. Một khi trái tim con người đóng kín trước lời mời gọi của Thiên Chúa thì cũng sẽ đóng kín trước những nhu cầu của anh chị em.

Cử hành cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay, xin Chúa biến đổi tâm hồn và cuộc sống chúng ta. Xin cho mỗi người trở nên mềm lòng trước tình yêu của Thiên Chúa. Xin cho chúng ta có một trái tim thật mềm để biết chạnh thương, rung động trước những đau khổ của anh em, và có một tâm hồn thật nhạy bén để biết quan tâm và cảm thông. Amen.

mục lục

 

30. Lòng thương xót tỏa sáng--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Trong cái nắng chói chang của sa mạc, người lữ hành vẫn tìm được những ốc đảo có cây cối xum xuê bởi có nguồn nước. Trong cánh đồng khô hạn, thỉnh thoảng người nông dân vẫn bắt gặp những bụi cây ngọn cỏ xanh tươi. Trong một xã hội đầy rẫy sự ác và bất công, người ta vẫn có thể thấy được những tấm lòng bao dung, nhân ái. Cũng vậy, đọc các bài đọc của ngày thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta có cảm tưởng như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm, nhưng trong khung cảnh tối tăm đó, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn tỏa sáng.

Câu chuyện xuất hành xảy ra vào thời điểm con cái Israel bị lưu đày tại Aicập. Tương lai của họ như mờ mịt bởi sự đàn áp của các Pharaon. Trong cảnh cùng cực đó, Thiên Chúa là người cha, đã nghe thấu tiếng than khóc của dân con Ngài. Thiên Chúa đã đem đến cho họ một tương lai tươi sáng qua cuộc xuất hành. Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh để bênh vực dân Ngài đã chọn. Để đánh dấu cuộc giải thoát vĩ đại này, Thiên Chúa đã chỉ thị cho Israel phải cử hành một nghi lễ sát tế con chiên vượt qua, lấy máu bôi lên khung cửa. Dấu máu này cho thấy họ thuộc về dân của Thiên Chúa và ai bôi máu chiên lên cửa thì sẽ được giải thoát. Trong đêm đó, Thiên Chúa sẽ đi ngang qua đất Aicập, nhà nào có dấu máu chiên, Thiên Chúa sẽ vượt qua và chúc phúc cho họ, nhà nào không có dấu máu chiên thì sẽ bị tru diệt.

Cuộc xuất hành cùng với nghi lễ ăn tiệc chiên vượt qua đã trở thành niềm tin ăn sâu vào đời sống của người Do Thái. Tất cả mọi người Do Thái đều nhìn biến cố này như một biến cố Thiên Chúa tỏ lòng xót thương đối với họ. Con chiên vượt qua và máu chiên là đấu chỉ cứu dân khỏi chết, đã trở thành biểu tượng rất thiêng liêng mà dân Israel đều ghi nhớ khi tham dự lễ vượt qua hàng năm.

Cũng trong truyền thống đạo đức này, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ bước vào bữa tiệc vượt qua. Nếu nghe câu truyện, chúng ta có cảm giác như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm cả không gian qua con người của Giuda, một kẻ đang bị ma quỷ sử dụng. Trong bầu khí rất cảm động và linh thiêng của bữa tiệc ly, Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy ra cho mình, nên Ngài đã dành tất cả thời gian còn lại trên trần gian để bộc lộ tình thương của Ngài dành cho các môn đệ và cho nhân loại. Từng cử chỉ, từng hành động của Chúa Giêsu là từng cử chỉ, hành động của tình yêu và lòng thương xót đến cùng, là hành động yêu thương của một người thầy dành cho học trò, của một người cha dành cho các con trước lúc ra đi.

Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu đã thực hiện một việc rất lạ lùng. Ngài cầm bánh và chén trao cho các tông đồ và nói với các ông: Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con, các con hãy cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước Mới, đổ ra để tha tội, các con hãy cầm lấy mà uống và hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Hành động này vượt quá sức tưởng tượng của các tông đồ, có lẽ ngay lúc ấy, các ông cũng chưa thể hiểu hết những việc Chúa làm. Qua việc biến bánh và rượu trở nên thịt máu Ngài, Chúa Giêsu muốn được ở lại và ở mãi bên những người mà Ngài yêu thương. Ngài muốn chúng ta đón nhận Ngài như là của ăn, để Ngài có thể đi vào trong tâm hồn từng người, làm nên chất dinh dưỡng nuôi sống con người.

Do tình yêu và lòng thương của một người thầy, người cha thúc đẩy, Chúa Giêsu không còn nghĩ gì đến bản thân mình, Ngài muốn thể hiện đến tận cùng lẽ yêu thương. Không chỉ trở nên của ăn để ở lại mãi với nhân loại, Chúa Giêsu còn trao cho các tông đồ quyền: Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã thiết lập nên chức Linh Mục, trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài để tiếp tục nối dài tình yêu thương và sự hiện diện của Ngài với nhân loại. Trao cho các tông đồ quyền thể hiện lòng thương xót và sự hy sinh của mình, Chúa Giêsu đã chấp nhận trở nên hoàn toàn lệ thuộc vào các ông. Từ đây, khi các ông làm như Chúa đã làm, thì Chúa hiện diện trong việc làm của các ông. Mặc dù Chúa biết rất rõ, các tông đồ là những kẻ yếu đuối và đầy giới hạn, nhưng Chúa vẫn chọn các ông là những linh mục đầu tiên, để qua sự giới hạn bất toàn của các tông đồ và của các linh mục ngày nay, lòng thương xót của Chúa lại tiếp tục được trao ban cho thế giới.

Các tông đồ chưa hết bất ngờ bởi việc bẻ bánh Chúa Giêsu vừa thực hiện thì lại đến bất ngờ khác. Thánh Gioan thuật lại: Ngài yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng. Yêu đến tột cùng là không còn giới hạn, không còn tiếc gì và cũng không còn giữ lại điều gì cho riêng mình. Tình thương này không chỉ dành cho những người ưu tuyển, nhưng dành cho tất cả mọi người, kể cả Giuđa, kẻ đang bị ma quỷ điều khiển. Chúa Giêsu đã chỗi dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu và cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Với hành động này, Chúa Giêsu để cho lòng thương xót vượt trên tất cả, phủ lấp tất cả. Ngài không còn nghĩ gì đến địa vị của một người Thầy. Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho các tông đồ, trong đó có Giuđa, kẻ đang nuôi trong lòng sự phản bội mà Chúa Giêsu đã biết.

Simon Phêrô và các tông đồ hết sức ngỡ ngàng đến độ không chấp nhận: Thưa Thầy, không thể như thế, Thầy không thể rửa chân cho con. Đối với người Do Thái, việc rửa chân là việc của nô lệ làm cho chủ, người tự do và con cái không phải làm việc này. Vậy mà, Chúa Giêsu đã xóa hẳn vị thế của mình là một người Thầy, để cúi xuống rửa chân cho các học trò. Điều này vượt quá lý lẽ thông thường của con người, nhưng với lý lẽ của tình yêu và lòng thương xót, thì việc làm này lại là việc làm có lý lẽ riêng của nó.

Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, trở về chỗ và nói: Anh em gọi Thầy là thầy, là Chúa, điều đó là phải. Vậy nếu Thầy là thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Bài học từ việc cúi xuống rửa chân đến đây đã rõ. Chúa Giêsu muốn dạy các ông bài học về sự phục vụ. Vì trở thành môn đệ của Chúa, thành những người nối dài tình yêu và lòng thương xót của Chúa, không phải để các tông đồ tìm kiếm một địa vị quyền lợi theo kiểu thế gian, nhưng là phải chấp nhận cởi bỏ con người của mình. Cởi bỏ con người tức là cởi bỏ địa vị, quyền lực, tham vọng, cởi bỏ cả cái tôi kiêu căng và thói tự ái, để có thể cúi xuống phục vụ anh em.

Sự phục vụ mà Chúa Giêsu mong muốn chúng ta làm không phải chỉ là sự phân phát bố thí, nhưng phải làm tất cả những việc đó bằng trái tim yêu thương và bằng sự trân trọng, tôn trọng anh em. Phục vụ tất cả mọi người không trừ ai, kể cả những người đang thù ghét và tìm cách hại mình, như Giuđa đang nuôi trong mình sự phản bội. Anh em cũng phải rửa chân cho nhau, Anh em hãy làm như Thầy đã làm không chỉ là một lời mời, mà là một đòi buộc đối với người môn đệ của Chúa. Chúa muốn những ai theo Chúa cũng phải dám cúi xuống để rửa chân phục vụ anh em mình. Chỉ khi dám cúi xuống mới có thể phục vụ đúng theo gương của Thầy Giêsu, chỉ khi cúi xuống chúng ta mới có thể nhìn thấy những nhu cầu của anh chị em để có thể cảm thông và chia sẻ.

Thưa quý OBACE, cử hành lễ Tiệc Ly hôm nay, chúng ta chiêm ngắm và cảm nhận một tình yêu trao ban đến tận cùng của Chúa Giêsu. Ngài đã ban tặng máu thịt làm của ăn của uống nuôi nhân loại. Ngài còn trao ban cả tự do và trọn con người của mình cho các tông đồ, khi lập Bí tích Truyền Chức. Ngài trao cho các ông quyền làm cho Ngài được hiện diện cách bí tích nơi trần gian cho đến ngày tận thế. Trước tình yêu trao ban lớn lao như thế, chúng ta được mời gọi đáp lại bằng việc đón rước Ngài một cách quảng đại, để cho Ngài đi vào tâm hồn và cuộc đời, để cho Ngài chiếm hữu và làm chủ đời ta.

Chúng ta cũng cầu nguyện cho các linh mục, các ngài chỉ là người phàm, mang đầy yếu đuối, nhưng lại được chọn để chia sẻ vào quyền năng của Thiên Chúa. Các linh mục được mời gọi để nhân danh Chúa, yêu thương và tiếp tục hiến tế cuộc đời mình cho anh em, theo gương Thầy Giêsu. Các linh mục đang từng ngày thánh hiến bản thân, nhưng vẫn không giũ hết khỏi mình sự lấm lem do yếu đuối. Chúng ta thông cảm, nâng đỡ và cầu nguyện cho các ngài.

Xin cho chúng ta thấm nhuần bài học phục vụ Chúa đã nêu gương, để trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng biết dẹp khỏi mình sự kiêu căng xét đoán, sự dửng dưng vô cảm, để biết cúi xuống phục vụ anh chị em. Xin cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để có thể nhìn thấy những nhu cầu và những đau khổ của anh em, để có thể có cái nhìn cảm thông. Xin cho chúng ta có một đôi tay giang rộng để có thể ôm ấp mọi người, để xoa dịu những đau khổ của kiếp người. Xin cho chúng ta có một đôi chân dẻo dai để có thể bước đến với anh em, xóa bỏ mọi ngăn cách nghi kỵ, hờn dỗi, để có thể đem tình yêu thương của Chúa đến cho họ. Amen.

 

31. Lòng thương xót tỏa sáng--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Trong cái nắng chói chang của sa mạc, người lữ hành vẫn tìm được những ốc đảo có cây cối xum xuê bởi có nguồn nước. Trong cánh đồng khô hạn, thỉnh thoảng người nông dân vẫn bắt gặp những bụi cây ngọn cỏ xanh tươi. Trong một xã hội đầy rẫy sự ác và bất công, người ta vẫn có thể thấy được những tấm lòng bao dung, nhân ái. Cũng vậy, đọc các bài đọc của ngày thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta có cảm tưởng như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm, nhưng trong khung cảnh tối tăm đó, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn tỏa sáng.

Câu chuyện xuất hành xảy ra vào thời điểm con cái Israel bị lưu đày tại Aicập. Tương lai của họ như mờ mịt bởi sự đàn áp của các Pharaon. Trong cảnh cùng cực đó, Thiên Chúa là người cha, đã nghe thấu tiếng than khóc của dân con Ngài. Thiên Chúa đã đem đến cho họ một tương lai tươi sáng qua cuộc xuất hành. Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh để bênh vực dân Ngài đã chọn. Để đánh dấu cuộc giải thoát vĩ đại này, Thiên Chúa đã chỉ thị cho Israel phải cử hành một nghi lễ sát tế con chiên vượt qua, lấy máu bôi lên khung cửa. Dấu máu này cho thấy họ thuộc về dân của Thiên Chúa và ai bôi máu chiên lên cửa thì sẽ được giải thoát. Trong đêm đó, Thiên Chúa sẽ đi ngang qua đất Aicập, nhà nào có dấu máu chiên, Thiên Chúa sẽ vượt qua và chúc phúc cho họ, nhà nào không có dấu máu chiên thì sẽ bị tru diệt.

Cuộc xuất hành cùng với nghi lễ ăn tiệc chiên vượt qua đã trở thành niềm tin ăn sâu vào đời sống của người Do Thái. Tất cả mọi người Do Thái đều nhìn biến cố này như một biến cố Thiên Chúa tỏ lòng xót thương đối với họ. Con chiên vượt qua và máu chiên là đấu chỉ cứu dân khỏi chết, đã trở thành biểu tượng rất thiêng liêng mà dân Israel đều ghi nhớ khi tham dự lễ vượt qua hàng năm.

Cũng trong truyền thống đạo đức này, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ bước vào bữa tiệc vượt qua. Nếu nghe câu truyện, chúng ta có cảm giác như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm cả không gian qua con người của Giuda, một kẻ đang bị ma quỷ sử dụng. Trong bầu khí rất cảm động và linh thiêng của bữa tiệc ly, Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy ra cho mình, nên Ngài đã dành tất cả thời gian còn lại trên trần gian để bộc lộ tình thương của Ngài dành cho các môn đệ và cho nhân loại. Từng cử chỉ, từng hành động của Chúa Giêsu là từng cử chỉ, hành động của tình yêu và lòng thương xót đến cùng, là hành động yêu thương của một người thầy dành cho học trò, của một người cha dành cho các con trước lúc ra đi.

Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu đã thực hiện một việc rất lạ lùng. Ngài cầm bánh và chén trao cho các tông đồ và nói với các ông: Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con, các con hãy cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước Mới, đổ ra để tha tội, các con hãy cầm lấy mà uống và hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Hành động này vượt quá sức tưởng tượng của các tông đồ, có lẽ ngay lúc ấy, các ông cũng chưa thể hiểu hết những việc Chúa làm. Qua việc biến bánh và rượu trở nên thịt máu Ngài, Chúa Giêsu muốn được ở lại và ở mãi bên những người mà Ngài yêu thương. Ngài muốn chúng ta đón nhận Ngài như là của ăn, để Ngài có thể đi vào trong tâm hồn từng người, làm nên chất dinh dưỡng nuôi sống con người.

Do tình yêu và lòng thương của một người thầy, người cha thúc đẩy, Chúa Giêsu không còn nghĩ gì đến bản thân mình, Ngài muốn thể hiện đến tận cùng lẽ yêu thương. Không chỉ trở nên của ăn để ở lại mãi với nhân loại, Chúa Giêsu còn trao cho các tông đồ quyền: Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã thiết lập nên chức Linh Mục, trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài để tiếp tục nối dài tình yêu thương và sự hiện diện của Ngài với nhân loại. Trao cho các tông đồ quyền thể hiện lòng thương xót và sự hy sinh của mình, Chúa Giêsu đã chấp nhận trở nên hoàn toàn lệ thuộc vào các ông. Từ đây, khi các ông làm như Chúa đã làm, thì Chúa hiện diện trong việc làm của các ông. Mặc dù Chúa biết rất rõ, các tông đồ là những kẻ yếu đuối và đầy giới hạn, nhưng Chúa vẫn chọn các ông là những linh mục đầu tiên, để qua sự giới hạn bất toàn của các tông đồ và của các linh mục ngày nay, lòng thương xót của Chúa lại tiếp tục được trao ban cho thế giới.

Các tông đồ chưa hết bất ngờ bởi việc bẻ bánh Chúa Giêsu vừa thực hiện thì lại đến bất ngờ khác. Thánh Gioan thuật lại: Ngài yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng. Yêu đến tột cùng là không còn giới hạn, không còn tiếc gì và cũng không còn giữ lại điều gì cho riêng mình. Tình thương này không chỉ dành cho những người ưu tuyển, nhưng dành cho tất cả mọi người, kể cả Giuđa, kẻ đang bị ma quỷ điều khiển. Chúa Giêsu đã chỗi dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu và cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Với hành động này, Chúa Giêsu để cho lòng thương xót vượt trên tất cả, phủ lấp tất cả. Ngài không còn nghĩ gì đến địa vị của một người Thầy. Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho các tông đồ, trong đó có Giuđa, kẻ đang nuôi trong lòng sự phản bội mà Chúa Giêsu đã biết.

Simon Phêrô và các tông đồ hết sức ngỡ ngàng đến độ không chấp nhận: Thưa Thầy, không thể như thế, Thầy không thể rửa chân cho con. Đối với người Do Thái, việc rửa chân là việc của nô lệ làm cho chủ, người tự do và con cái không phải làm việc này. Vậy mà, Chúa Giêsu đã xóa hẳn vị thế của mình là một người Thầy, để cúi xuống rửa chân cho các học trò. Điều này vượt quá lý lẽ thông thường của con người, nhưng với lý lẽ của tình yêu và lòng thương xót, thì việc làm này lại là việc làm có lý lẽ riêng của nó.

Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, trở về chỗ và nói: Anh em gọi Thầy là thầy, là Chúa, điều đó là phải. Vậy nếu Thầy là thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Bài học từ việc cúi xuống rửa chân đến đây đã rõ. Chúa Giêsu muốn dạy các ông bài học về sự phục vụ. Vì trở thành môn đệ của Chúa, thành những người nối dài tình yêu và lòng thương xót của Chúa, không phải để các tông đồ tìm kiếm một địa vị quyền lợi theo kiểu thế gian, nhưng là phải chấp nhận cởi bỏ con người của mình. Cởi bỏ con người tức là cởi bỏ địa vị, quyền lực, tham vọng, cởi bỏ cả cái tôi kiêu căng và thói tự ái, để có thể cúi xuống phục vụ anh em.

Sự phục vụ mà Chúa Giêsu mong muốn chúng ta làm không phải chỉ là sự phân phát bố thí, nhưng phải làm tất cả những việc đó bằng trái tim yêu thương và bằng sự trân trọng, tôn trọng anh em. Phục vụ tất cả mọi người không trừ ai, kể cả những người đang thù ghét và tìm cách hại mình, như Giuđa đang nuôi trong mình sự phản bội. Anh em cũng phải rửa chân cho nhau, Anh em hãy làm như Thầy đã làm không chỉ là một lời mời, mà là một đòi buộc đối với người môn đệ của Chúa. Chúa muốn những ai theo Chúa cũng phải dám cúi xuống để rửa chân phục vụ anh em mình. Chỉ khi dám cúi xuống mới có thể phục vụ đúng theo gương của Thầy Giêsu, chỉ khi cúi xuống chúng ta mới có thể nhìn thấy những nhu cầu của anh chị em để có thể cảm thông và chia sẻ.

Thưa quý OBACE, cử hành lễ Tiệc Ly hôm nay, chúng ta chiêm ngắm và cảm nhận một tình yêu trao ban đến tận cùng của Chúa Giêsu. Ngài đã ban tặng máu thịt làm của ăn của uống nuôi nhân loại. Ngài còn trao ban cả tự do và trọn con người của mình cho các tông đồ, khi lập Bí tích Truyền Chức. Ngài trao cho các ông quyền làm cho Ngài được hiện diện cách bí tích nơi trần gian cho đến ngày tận thế. Trước tình yêu trao ban lớn lao như thế, chúng ta được mời gọi đáp lại bằng việc đón rước Ngài một cách quảng đại, để cho Ngài đi vào tâm hồn và cuộc đời, để cho Ngài chiếm hữu và làm chủ đời ta.

Chúng ta cũng cầu nguyện cho các linh mục, các ngài chỉ là người phàm, mang đầy yếu đuối, nhưng lại được chọn để chia sẻ vào quyền năng của Thiên Chúa. Các linh mục được mời gọi để nhân danh Chúa, yêu thương và tiếp tục hiến tế cuộc đời mình cho anh em, theo gương Thầy Giêsu. Các linh mục đang từng ngày thánh hiến bản thân, nhưng vẫn không giũ hết khỏi mình sự lấm lem do yếu đuối. Chúng ta thông cảm, nâng đỡ và cầu nguyện cho các ngài.

Xin cho chúng ta thấm nhuần bài học phục vụ Chúa đã nêu gương, để trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng biết dẹp khỏi mình sự kiêu căng xét đoán, sự dửng dưng vô cảm, để biết cúi xuống phục vụ anh chị em. Xin cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để có thể nhìn thấy những nhu cầu và những đau khổ của anh em, để có thể có cái nhìn cảm thông. Xin cho chúng ta có một đôi tay giang rộng để có thể ôm ấp mọi người, để xoa dịu những đau khổ của kiếp người. Xin cho chúng ta có một đôi chân dẻo dai để có thể bước đến với anh em, xóa bỏ mọi ngăn cách nghi kỵ, hờn dỗi, để có thể đem tình yêu thương của Chúa đến cho họ. Amen.

 

32. Thứ Năm Tuần Thánh—Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Thứ Năm Tuần Thánh là dịp tưởng nhớ bữa tiệc ly của Đức Giêsu, khi Ngài thiết lập bí tích Thánh Thể trước khi Ngài bị bắt và bị đóng đinh. Đây cũng là thời gian Ngài thiết lập bí tích Truyền Chức Thánh. Ngày thánh này rơi vào ngày thứ năm trước Phục sinh và là một phần của Tuần Thánh. Chúa Giêsu dùng bữa tối như một bữa tiệc vượt qua. Đức Kitô sẽ hoàn tất sứ mạng của Ngài như một Con chiên trong Bữu Vượt Qua vốn chết thay cho cả nhân loại để cứu con người bằng hiến tế sau cùng của Ngài.

Bữa Tiệc Ly là một bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu với các môn đệ tại Giêrusalem. Trong bữa ăn, Ngài tiên báo kẻ sẽ phản bội Ngài.

Tâm điểm của cuộc tưởng niệm thứ Năm Tuần Thánh là nghi thức tưởng nhớ Bữa Tiệc Ly trong Thánh Lễ. Sự kiện này được cử hành trong mỗi thánh lễ như một phần của phụng vụ Thánh Thể, những nghi thức ấy đặc biệt được nhắc lại trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh.

Ngài cũng thiết lập chức linh mục đặc biệt cho các môn đệ của mình, chức này phân biệt với “chức tư tế của các tín hữu.” Đức Kitô rửa chân cho các môn đệ vốn là những linh mục đầu tiên. Thiết lập chức linh mục này được tái diễn trong thánh lễ với việc linh mục rửa chân cho vài giáo dân.

Suốt Bữa Vượt Qua, Chúa Giêsu bẻ bánh trao cho các Môn Đệ và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em.” Tức thì Ngài nâng chén rượu và nói “Đây là máu thầy…” Những ai tin rằng khi ăn và uống mình máu Chúa Kitô, họ sẽ được sự sống đời đời.

Suốt thánh lễ, người công giáo xác tín rằng việc bánh không men và rượu nho được hóa nên mình và máu Chúa Giêsu Kitô ngang qua tiến trình hóa thể (transubstantiation). Hiện vẫn có những phép lạ Thánh Thể nổi tiếng minh chứng cho sự việc này, chẳng hạn như Thánh Thể chảy máu (khi rước lễ).

Bữa Tiệc Ly được cử hành hằng ngày trong Giáo Hội Công Giáo như một phần của mọi thánh lễ bởi nhờ sự thánh hiến của Đức Kitô mà chúng ta được cứu độ.

Vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh, các tín hữu ở lại chầu Thánh Thể trong sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể giống như các môn đệ khi xưa ở lại với Ngài trong Vườn Cây Dầu.

Sau Bữa Tiệc Ly, các môn đệ đi với Đức Giêsu lên núi Cây Dầu và ở đó Ngài vị Giuđa phản bội.

Bữa Tiệc Ly là một đề tài nghệ thuật trong nhiều thế kỷ mà kiệt tác trong chủ đề này vẫn là bức tranh Bữa Tiệc Ly của Leonardo Da Vinci.

Mọi lúc mọi nơi trên thế giới đều có thánh lễ và rước Mình Thánh Chúa. Thánh lễ được cử hành liên lỉ ít là vài trăm năm qua. Gần hai ngàn năm qua, mỗi ngày qua đi đều có thánh lễ. Vì vậy bất cứ ai cử hành thánh lễ, họ cũng dự phần vào truyền thống vốn trải dài 2000 năm nay.

“Vậy trong suốt Mùa Chay, anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.” (Ep 5, 1-9)

“Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.” (Gl 6, 14)

 

33. Những cuộc chia ly nhiều lưu luyến-- Truyền thông HĐGMVN—Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Thứ Năm Tuần Thánh là một ngày của chia ly. Đức Giêsu, người Thầy yêu mến của các môn đệ, phải nói lời sau cùng với cả nhóm. Để chuẩn bị cho cuộc chia ly này, Đức Giêsu đã cho người sửa soạn một nơi khá riêng tư và kín đáo, chỉ có các thầy trò. (Lc 22,19). Đó là một phòng ăn rộng rãi ở trên lầu.

tính chất của buổi tối sau cùng ngày hôm ấy, nên phòng này còn được gọi là Nhà Tiệc Ly. Tuy không ở đó, nhưng chúng ta có thể mường tượng được qua lời kể của thánh sử Gioan, người đã ngồi cạnh Đức Giêsu trong bàn tiệc.

Tôi muốn đề cập đến cuộc chia ly ấy, để thấy Thiên Chúa cũng có kinh nghiệm để chia sẻ nỗi đau với con người trong dịch bệnh lần này. Mỗi người chết vì Covid–19 có những cuộc chia ly với gia đình, bạn thân và các y bác sĩ. Có người chết trong cô quạnh chẳng kịp nói lời sau cùng với ai. Có người đang chịu nỗi đau quằn quại vì cơn bệnh đến nỗi không thể nói lời vĩnh biệt. Người thân cũng chẳng thể gặp mặt để tạm biệt lần cuối. Trong muôn vàn cách thế chia ly đó, mẫu số chung là những giọt nước mắt lăn dài trên má! Nỗi đau lòng, bất hạnh, khổ sở và niềm tuyệt vọng của những người còn sống cố tìm kiếm lý do giải thích.

Chúa Giêsu của chúng ta cũng thế. Ngài biết giờ của Ngài sắp đến, giờ phải về với Chúa Cha. Ngài đã chuẩn bị cho giờ này rất lâu rồi. Ngài chuẩn bị cả một di chúc dài để trao cho các môn đệ. Bản di chúc ấy thánh Gioan đã cẩn thận ghi lại (x. Ga chương 13–17). Chúng ta có thể tóm gọn di chúc này trong vài từ chính yếu: phục vụ, tình yêu, bí tích Thánh Thể, Đấng Bảo trợ sẽ đến, Thầy Giêsu sẽ trở lại, v.v.

– Rửa chân và tinh thần phục vụ trong mùa dịch:

Trong mùa dịch, ước sao có nhiều người noi gương Đức Giêsu trong lúc này, cúi xuống phục vụ những ai nhiễm bệnh. Nhớ lại bài chia sẻ hôm ban phép lành ngoại thường cho toàn thế giới, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh đến cầu nguyện và phục vụ âm thầm. Đó là những khí giới chiến thắng của chúng ta. Những người đang xả thân phục vụ trong những ngày tháng này là: các bác sĩ, y tá nam nữ, các nhân viên siêu thị, nhân viên vệ sinh, những người giúp việc gia đình, các nhân viên chuyên chở, các nhân viên công lực, những người thiện nguyện, các linh mục, nữ tu và bao nhiêu người khác. Họ thực sự đang cố gắng chia sẻ nỗi đau với bao người. Họ đang khóc với người khóc!

– Nguồn sức mạnh nơi thánh lễ trực tuyến [online]:

Chúng ta phải tham dự thánh lễ trực tuyến [online] tại nhà. Đó là Bí Tích mà Đức Giêsu đã lập trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Trong điều kiện ấy chúng ta cũng đang phải tạm chia ly với cộng đoàn giáo xứ, với nhà thờ thân yêu. Trong hoàn cảnh ấy, giáo dân và linh mục tin rằng Thiên Chúa cũng đang liên kết mỗi người nơi thánh lễ trực tuyến [online]. Dẫu sao, nhờ phương tiện truyền thông, thánh lễ vẫn có thể trở nên nguồn an ủi với mỗi người trong lúc này.

–  Chúa Thánh Thần sẽ đến:

Đó là lời hứa của Đức Giêsu dành cho các môn đệ. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Thánh Thần đã đến với nhân loại trong ngày lễ Ngũ Tuần. Hơn lúc nào hết, chúng ta cũng khẩn xin Ngài soi sáng cho các nhà nghiên cứu sớm tìm ra thuốc chủng ngừa và thuốc chữa trị. Chỉ khi đó người ta mới an tâm như chưa hề có cuộc chia ly. Khi ấy con người không phải khóc thương vì bệnh Covid–19 nữa. Xin Thánh Thần mau đến. Amen.

Tiếc là chúng ta không thể đi vào chi tiết của những lời chia tay ngày hôm ấy. Thực tế cuộc chia ly này diễn ra khá dài, đủ giờ để Đức Giêsu nói với các môn đệ những gì cần thiết. Hằng năm chúng ta cũng được cử hành lại cuộc chia ly này. Khi đó vài lời di chúc của Thầy Giêsu cũng được Giáo Hội nhắc lại. Năm nay vì đại dịch Covid–19, chúng ta ở nhà cùng với nhau tham dự trực tuyến cuộc cử hành này.

Chúng ta chẳng thể liệt kê nổi bao nhiêu cuộc biệt ly trong vội vã của người thân với các bệnh nhân. Khi nhiễm bệnh, họ được đem đi cấp cứu và tuyệt đối cách ly. Phần lớn là những người già cả. Chắc họ cũng có gia đình, con cháu và họ hàng. Khi virus tấn công, chắc không đủ thời gian để họ nói những lời cần thiết với người còn ở lại. Cuộc chia ly như thế luôn đọng lại nhiều nước mắt, hoài niệm và đau lòng cho cả hai bên. Biết sao được khi dịch bệnh đang lan tràn. Người ta chẳng biết khi nào mình phải bị cách ly hoặc nhập viện.

Trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh này, chắc mỗi người dừng lại đôi chút để chiêm ngắm những cuộc chia ly như thế. Chúa cũng đau nỗi đau của con người; Ngài cũng buồn nỗi buồn của nhân loại. Tin Mừng không cho thấy các môn đệ hoặc Thầy Giêsu khóc. Họ có xao xuyến, nghẹn ngào và xúc động. Những dòng cảm xúc ấy đủ cho thấy tâm trạng của mỗi người trong lúc này. Đúng là lời nào buồn hơn phút chia tay! Nhất là chia ly trong vĩnh biệt!

Hãy chia ly trong Chúa

Giáo Hội hiểu việc cử hành Bí Tích Thánh thể không chỉ là để nhớ lại biến cố lịch sử Bữa Tiệc Ly, mà còn hiện tại hóa sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng đã chịu chết và sống lại. Theo ý nghĩa này, lúc nào chúng ta cũng có cuộc chia ly như thế. Lúc nào Đức Giêsu cũng đang hiến tế chính mình để cứu độ nhân loại. Trong niềm tin, chúng ta tin Đức Giêsu đang ở trong cuộc chia ly của nhiều người. Nơi đó, “giọt nước mắt sẽ nên nụ cười và tiếng hát vang dậy trời cao”.

Cụ Nguyễn Du năm xưa viết rằng: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Năm nay và trong Tuần Thánh này, Đức Giêsu nói với mỗi người: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.” (Ga 16,20).

 

34. Nghi lễ rửa chân trong phụng vụ thứ Năm Tuần Thánh được thành hình như thế nào?-- Đức Ông Phanxicô Borgia Trần Văn Khả

Trong Thánh lễ Tiệc ly chiều thứ Năm Tuần Thánh, có nghi lễ rửa chân, tùy hoàn cảnh có thể cử hành. Thường thì linh mục rửa chân cho 12 cụ chức sắc trong họ đạo, hay 12 thanh niên. Tại Nhà thờ Thánh Gioan Latêranô, Đức Giáo Hoàng rửa chân cho 12 Kinh sĩ của Vương Cung thánh đường này. Chúng ta sẽ tìm hiểu về một số điểm liên hệ tới nghi lễ này.

I. Truyền thống phụng vụ

Về lịch sử và truyền thống phụng vụ của nghi thức rửa chân, có những điểm sau đây cần được ghi nhận.

Trước tiên nghi lễ này được gợi hứng từ đoạn 13 Phúc âm theo thánh Gioan, câu 1 đến câu 18, tường thuật việc Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông đồ tại nhà Tiệc ly, trước khi Ngài chịu nạn. Gioan tường thuật sự việc này với ý hướng nhấn mạnh gương khiêm nhường và bác ái của Chúa Kitô, để mọi người noi theo.

Về sau việc rửa chân này đã được diễn lại tại một số nơi, nhưng theo những lối giải thích khác nhau.

người cho rằng vào thế kỷ đầu, vào khoảng giữa thế kỷ thứ II, tại các giáo đoàn theo truyền thống của thánh Gioan, và theo quan điểm Chúa Kitô chịu hiến tế trên thập giá vào đúng ngày 14 tháng Nisan, ngày cử hành lễ Chiên vượt qua của người Do Thái, thì đã có nghi thức rửa chân, được coi như là một nghi thức rửa tội. Truyền thống này dựa vào việc phân tích bản văn của Gioan và một vài chứng từ khác của các giáo phụ, như Irênê. Truyền thống này được nhận ra tại vùng Tiểu Á và Gallia, nhưng rồi biến mất cùng với nhóm người chủ trương mừng lễ Vượt qua vào ngày 14 tháng Nisan. Đó là truyền thống bên Đông phương về nghi thức rửa chân và lối giải thích theo chiều hướng rửa tội vào mấy thế kỷ đầu.

Bên Tây phương, về khía cạnh lịch sử, chúng ta có bài giảng thứ XV của giáo phụ Cromazio ở Aquileia, Italia (388-407) đã giải thích đoạn Phúc âm thánh Gioan 13, về việc Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông đồ ở nhà Tiệc ly. Giáo phụ chú giải sự kiện này như một bài học khiêm nhường, nhưng còn có một ý nghĩa khác, nằm trong công việc cứu rỗi của Thiên Chúa, đó là việc rửa sạch tội lỗi nhân loại. Giáo phụ Cromazio gợi ý tới việc Abraham rửa chân cho khách, như là cử chỉ tiên báo cho hành vi của Chúa Kitô trong nhà tiệc ly rửa chân cho các tông đồ để thanh luyện và thánh hóa các ông, điều Ngài sẽ thực hiện trên thập giá. Nghi thức khai tâm Kitô giáo ở vùng Aquileia gồm có việc rửa chân, việc dìm ứng viên xuống nước và việc đặt tay trên tân tòng. Việc rửa chân cho ứng viên dự tòng là để chuẩn bị họ lãnh nhận việc thánh luyện cứu rỗi bằng nước rửa tội.

Vào thế kỷ thứ tư, hai nguồn văn bản, tức là các bài giáo lý của thánh Cirillo thành Giêrusalem, vào thế kỷ thứ tư (khoảng năm 348), và cuốn nhật ký hành hương của bà quý phái Egeria, cũng vào thế kỷ thứ tư (khoảng năm 384), tại Giêrusalem. Trong hai tài liệu này, chúng ta không thấy có dấu vết về nghi thức rửa chân.

Vào cuối thế kỷ thư tư, tại Tây Ban Nha, có nghi thức rửa chân cho các tân tòng trong nghi thức rửa tội. Nhưng sau đó bị Công đồng Elvira bên Tây Ban Nha, vào cuối thế kỷ thứ tư, cấm cử hành trong nghi thức khai tâm Kitô giáo, có lẽ để hòa hợp với phụng vụ tại các nơi khác chăng (Concilio di Elveria, canon 48). Đây là văn bản thứ nhất bên Tây nói về việc rửa chân. Vào thế kỷ thứ 8 thì việc rửa chân trong nghi thức rửa tội hoàn toàn bị bãi bỏ trong phụng vụ, để hòa hợp với phụng vụ của Rôma.

II. Nghi lễ rửa chân được thành hình

Nghi lễ rửa chân trong phụng vụ thứ Năm Tuần Thánh được thành hình như thế nào? Chúng ta sẽ bàn tới sau đây.

Về việc rửa chân vào nghi thức phụng vụ thứ Năm Tuần Thánh, văn bản đầu tiên nói về nghi lễ rửa chân trong phụng vụ thứ Năm Tuần Thánh là Sách Kanonarion vùng Giorgia, vào khoảng thế kỷ thứ VII hoặc thứ VIII. Nhưng người ta có thể nói là nghi lễ rửa chân trong phụng vu thứ Năm Tuần Thánh đã có từ cuối thế kỷ thứ V. Nghi lễ tiếp theo viêc đọc đoạn Phúc Âm theo thánh Gioan 13,3-30, với việc hát các thánh ca và đọc các kinh.

Người ta có thể hiểu dễ dàng lý do tại sao có việc rửa chân trong phụng vụ ngày thứ Năm Tuần Thánh. Đó là việc mừng lại theo diễn tiến lịch sử các biến cố trong cuộc đời Chúa Kitô, nhất là trong những ngày cuối cùng của Ngài ở trần gian, để rồi từ việc cử hành phụng vụ, những bài học tu đức được nêu ra cho đời sống tín hữu. Điều này chúng ta nhận ra rõ ràng trong các tập tục của các đan viện tại Giêrusalem.

Từ Giêrusalem, nghi lễ rửa chân này lan tới phụng vụ tại Bizanzio và đi vào phụng vụ Bizantina, vào những năm cuối của thế kỷ thứ VIII.

Còn bên Tây, chứng cớ đầu tiên về sự hiện diện của việc rửa chân trong phụng vụ thứ Năm Tuần Thánh, được nhận ra trong khoản luật thứ 3 của Công đồng họp tại Toledo, vào năm 694, truyền cho các giám mục phải rửa chân cho các linh mục của mình vào thứ Năm Tuần Thánh. Vị nào không tuân lệnh sẽ bị rút phép thông công hai tháng. Sở dĩ có hình phạt rút phép thông công, vì Công đồng biết trước phản ứng của nhiều nơi không muốn đem việc rửa chân này vào trong phụng vụ thứ Năm Tuần Thánh. Nghi thức diễn ra như sau: dân chúng ra khỏi nhà thờ, rồi giám mục rửa chân cho hàng giáo sĩ, vị linh mục niên trưởng đi lau chân cho các ngài.

Cũng vào thời đó, thánh Isidoro thành Seviglia đã đem vào trong luật của ngài, tục rửa chân cho khách đến nhà dòng, nhất là khách đó là các đan sĩ.

Tại Rôma, nghi lễ rửa chân do Đức Giáo hoàng vào thứ Năm Tuần Thánh, có lẽ được đưa vào Rôma từ thế kỷ thứ VII hoặc thứ VIII, do Đức Giáo hoàng Sergio thứ I. Trong nghi lễ này, Đức Giáo hoàng rửa chân cho 12 thày phụ phó tế, trong khi đó hát bài thánh ca: Mandatum novum, và phân phát quà tặng cho các giáo sĩ. Các linh mục cũng lặp lại việc rửa chân với tín hữu tại các nhà thờ ở ngoại ô Rôma.

III. Nội dung thần học tu đức của nghi lễ rửa chân

Về ý nghĩa của nghi lễ rửa chân, chúng ta đã nhận ra qua phần trình bày trên đây, đi từ Phúc Âm thánh Gioan, với bài học khiêm nhường và bác ái; rồi về sau, với lối giải thích cử chỉ này như là hành vi thanh luyện và tha tội. Nhưng dần ý nghĩa nguyên thủy của Phúc Âm Gioan đã được chấp nhận từ thế kỷ thứ V trở đi, ở bên Đông cũng như bên Tây.

Như vậy nghi lễ và cử chỉ này có một ý nghĩa rõ ràng ngay trong Phúc Âm và trong truyền thống phụng vụ. Và để nhận ra ý nghĩa này, người ta cần cử hành đúng nghi lễ như trong Phúc Âm và trong phụng vụ. Những thay đổi khác, sẽ làm mất hoặc giảm ý nghĩa thần học và tu đức đã đi liền với cử chỉ, nghi lễ tư xa xưa.

Đi từ việc tìm hiểu nghi lễ rửa chân trong phụng vụ thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta nhận thấy rằng những thay đổi tự do trong phụng vụ, không do quyền bính của Giáo hội, sẽ chỉ là những hành vi theo trí tưởng tượng, thiếu hiểu biết sâu xa về lịch sử và nội dung thần học.

IV. Một cách thức mới về nghi lễ “rửa tay” thay vì “rửa chân” có được không?

Tại một số nơi bên Âu Châu một cách thức mới về lễ nghi này được thành hình như sau: cha sở của một cộng đoàn người địa phương, cùng với các cha đồng tế chia nhau đi xuống dọc theo hai hàng đầu ghế, rửa tay cho giáo hữu, bất luận đàn ông hay đàn bà, trẻ con hay người lớn. Làm như vậy, cha có ý tránh sự phân biệt người đàn ông được chọn rửa, và rồi không chỉ mười hai người được rửa, nhưng làm như vậy thì nhiều người được rửa tay hơn và bất kỳ ai.

Để trả lời cho câu hỏi, là làm như vừa ghi lại trên đây có được không, chúng ta ghi lại ít điểm chữ đỏ trong Sách lễ Rôma như sau:

“Bài giảng sẽ đề cập tới các mầu nhiệm được tưởng niệm trong thánh lễ: tức là việc lập Bí tích Thánh Thể, chức tư tế và điều răn của Chúa về tình bác ái huynh đệ. Sau bài giảng, sẽ cử hành nghi thức rửa chân, nếu lý do mục vụ khuyên nên làm.

“Các người giúp lễ sẽ hướng dẫn các người đàn ông đã được tuyển chọn đến ghế dọn sẵn. Sau đó linh mục (cởi áo lễ nếu cần), với các người giúp lễ, đi đến từng người, đổ nước trên chân họ và lau”.

 Đó là luật phụng vụ liên hệ tới nghi lễ rửa chân. Luật này áp dụng cho tất cả các nơi và không ai được quyền thay đổi vì lý do gì, như Công đồng chung Vaticanô đã xác định trong Hiến chế về phụng vụ, số 22, 3 như sau: “1. Việc điều hành phụng vụ thánh chỉ tùy thuộc thẩm quyền của Giáo Hội: nghĩa là thuộc quyền Tông Tòa và chiếu theo qui tắc luật pháp, cũng thuộc quyền giám mục… 2. Vì vậy tuyệt đối không một ai khác, dù là linh mục, được tự quyền thêm hay bớt hay thay đổi một điều gì trong Phụng vụ”.

Đàng khác, trong luật chữ đỏ của Sách lễ Rôma vừa ghi trên đây, nếu vì lý do nào đó, mà linh mục thấy không cần cử hành nghi lễ rửa chân, thì có thể bỏ nghi lễ này, và tiếp tục cử hành thánh lễ. Như vậy nghi lễ này không có tính cách bắt buộc. Nhưng khi đã cử hành thì phải cử hành trọn vẹn, theo đúng như được ghi trong Sách Lễ Rôma.

Sau cùng, khi cử hành nghi lễ rửa chân, thì linh mục, cũng như mọi người phải nhận ra lịch sử của nó, cũng như ý nghĩa thần học tu đức của nó trong truyền thống phụng vụ, cũng như trong truyền thống giáo phụ. Trong công cuộc canh tân Nghi thức Tuần Thánh do Đức Giáo hoàng Piô XII thực hiện vào năm 1954, cũng đã lấy lại nghi lễ này và làm theo truyền thống phụng v của Giáo hội latinh. Làm khác đi là đi ngược lại truyền thống đã có sẵn về nghi lễ này.

mục lục

 

35. Phép Thánh Thể do Chúa Giêsu lập--Lm Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang

Chiều Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay, Giáo Hội cử hành Thánh Lễ Tiệc Ly.

Cách đây hơn hai ngàn năm, trong Nhà Tiệc Ly tại nước Do Thái, trước khi ra đi chịu chết để cứu chuộc loài người chúng ta, Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể cao sâu mầu nhiệm để nói lên lòng Chúa yêu thương chúng ta vô bờ vô bến!

Cộng đoàn phụng vụ chúng ta hãy cùng nhau suy niệm Lời Chúa về những hoàn cảnh Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể trong Nhà Tiệc Ly.

Khi chia ly, ai cũng muốn chỉ thấy quanh mình những người thân thiết. Trong giờ chia ly, Chúa Giêsu chỉ muốn quy tụ quanh Ngài những môn đệ thân thiết nhất: “Khi giờ đã đến, Chúa Giêsu vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. Người nói với các ông: "Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22,14-15).

Khi chia ly, ai cũng muốn có một nơi thật kín đáo để thổ lộ tâm tình. Trong giờ chia ly, Chúa Giêsu chọn một phòng kín đáo để tâm sự: “Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: “Thầy nhắn: "Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta" (Mc 14, 13-15).

Khi chia ly, ai cũng muốn tỏ ra hiệp nhất với những người thân yêu, vì thế, sẽ mời họ ăn một bữa tiệc chia ly. Trong giờ chia ly, Chúa Giêsu mời các Tông Đồ ăn một bữa tiệc chia ly: “Chiều đến, Chúa Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ” (Mt 26,20).

Khi chia ly, ai cũng muốn đem ra đãi món ăn, món uống quý nhất của mình. Trong giờ chia ly, Chúa Giêsu đãi các Tông Đồ món ăn, món uống quý nhất của Chúa, đó là Mình và Máu Thánh của Ngài, của ăn hằng sống, của uống trường sinh: “Cũng đang bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy”" (Mc 14,22-23).

Khi chia ly, ai cũng muốn nói sự thật một lần cuối cùng cho rõ. Trong giờ chia ly, Chúa Giêsu nói rõ điều bí mật nhất của Ngài, là bản tính Thiên Chúa của Ngài, và mầu nhiệm cao siêu nhất mà Ngài muốn mặc khải, là mầu niệm Thiên Chúa Ba Ngôi: “Nói thế xong, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân, là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô” (Ga 17,1-3).

Khi chia ly, người nào phải ra đi, thì lòng bồi hồi cảm động, dùng dằng, nói tới nói lui. Trong giờ chia ly, Chúa Giêsu cũng dùng dằng, nói lui nói tới: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3).

Khi chia ly, người nào phải ra đi, thì nói nhiều lời an ủi những người ở lại. Trong giờ chia ly, Chúa Giêsu cũng nói nhiều lời an ủi các Tông Đồ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1) / “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27) / “Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga 16,22).

Khi chia ly,ôngf ra đi nói lời trối trăn cuối cùng. Trong giờ chia ly, Chúa Giêsu trối lại: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13, 34-35).

Phép Thánh Thể bắt buộc chúng ta phải có một đức tin thật sâu xa vì đây là Mầu Nhiệm vượt quá mọi hiểu biết của con người, vượt quá mọi hiểu biết của các thánh, vượt quá mọi hiểu biết của các thiên thần. Mầu Nhiệm Thánh Thể nằm trong Quỹ Đạo vô cùng sâu thẳm của Mầu Nhiệm Ba Ngôi, Mầu Nhiệm mà không một loài thụ tạo nào có thể hiểu được. Đức tin đã là mầu nhiệm, nhưng đây, Phép Thánh Thể còn là Mầu Nhiệm của Đức Tin!

Chúng ta phải tin thật những lời Chúa Giêsu đã hứa về Phép Thánh Thể: “Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?" Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống" (Ga 6,52-55).

Chúng ta phải tin thật Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, tức là Chúa Giêsu đã biến bánh và rượu trở thành Thịt và Máu của Ngài để nuôi sống thế gian: “Cũng trong bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy." Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,26-28).

Chúng ta phải tin thật Chúa Giêsu đã ban quyền cho các Tông Đồ cử hành Phép Thánh Thể: "Rồi Chúa cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy." (Lc 22,19).

Chúng Phải tin thật Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông Đồ cử hành Phép Thánh Thể qua mọi thời đại, cho tới khi Ngài lại đến trong vinh quang: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết" (1 Cr 11, 26).

Chúng ta phải tin thật Chúa Giêsu có mặt thật sự dưới hình thức bánh rượu sau khi linh mục truyền phép, nghĩa là sau khi Truyền Phép, bánh và rượu không còn nữa, mà chỉ có Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể, gồm Thân Xác Phục Sinh của Ngài, Linh Hồn của Ngài, và Bản Tính Thiên Chúa của Ngài.

Mầu Nhiệm Thánh Thể là trung tâm và là chóp đỉnh của đời sống đức tin của chúng ta: như con người sống được là nhờ có trung tâm tim, nhờ có chóp đỉnh đầu, người công giáo chúng ta sống được đời sống đức tin là nhờ có Tim Thánh Thể, nhờ có Đầu Thánh Thể.

Trên trời, dưới đất, không có điều nào cao cả cho bằng Phép Thánh Thể do Chúa Giêsu đã lập: chỉ phán một lời, tức thì bánh và rượu trở nên Mình thật và Máu thật của Chúa.

Thiên Chúa là Đấng phép tắc vô cùng, làm gì cũng được, nhưng Thiên Chúa không làm được một điều gì lạ lùng hơn Phép Thánh Thể. Chúng ta dám nói như vậy.

Đạo Công Giáo chúng ta là Đạo Thánh Thể.

Hoặc là Phép Thánh Thể! Hoặc là không còn Đạo Công Giáo nữa!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hết lòng tin vào Phép Thánh Thể do Chúa đã lập!

Đây là Mầu Nhiệm Đức Tin!

Amen.

 

36. Thứ Năm Tuần Thánh: Chuyện lạ có thật!-- Lm. Ansgar Phạm Tĩnh

Không biết bạn có thấy có gì lạ trong bài Phúc Âm của ngày thứ Năm tuần Thánh hay không? Tôi thấy cách hành xử của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài lạ lắm! Này nhé!

Trong là tất cả các môn đệ của Ngài, những tên học trò mà Ngài đã tuyển chọn, đã vất vả huấn luyện, đã ra công dạy dỗ và yêu thương suốt mấy năm trường toàn là những kẻ ham sống sợ chết, sẽ bỏ trốn, sẽ bỏ Ngài… Thế mà Ngài lại đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng…. đổ nước vào chậu … rửa chân cho [họ] và lấy khăn thắt lưng mà lau chân cho họ như một tên đầy tớ (Jn 13:1-5).

Ngài biết tỏ tường về Giuđa, (một môn đệ mà Ngài đã yêu thương, đã từng tin tưởng và giao phó cho chức vụ thủ quỹ) sắp sửa trở thành tên phản đồ, chuẩn bị bán đứng Ngài với một cái giá rẻ mạt, chỉ bằng 1/10 giá của chai dầu thơm cam tùng của cô Maria. Vậy mà Ngài vẫn cúi xuống rửa chân cho hắn, vẫn cho ngồi chung bàn và ăn uống chung với hắn. Ngài không la mắng, chửi rủa, mạt sát tên phản đồ nhưng chỉ nhắc khéo, chỉ nói xa nói gần: “Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu…. Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy”(Jn 1:10, 21).

Ngài cũng biết rõ anh chàng Phêrô và mười môn đệ khác có những lá phổi to như phổi bò nhưng lại có những lá gan bé tí tẹo, nhát như cáy … chỉ hứa cuội, hứa lèo, nói bừa, nói càn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy. Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy (Mt 26: 35). Thế nhưng Ngài chỉ buồn buồn nói với họ rằng: "Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy…. Thầy bảo thật anh: nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần” (Mt 26:31-34).

Bạn thấy lạ không? Nếu giả như mà tôi phát hiện ra có người có ý phản phé, có ý định bán đứng tôi, có thái độ tham sống sợ chết, bỏ rơi tôi trong lúc gian nan khốn khó thì tôi sẽ ra tay triệt ngay lập tức không thương tiếc! Hay ít là cũng phải la toáng lên, vạch mặt thủ phạm ra trước bá quan văn võ, phải chửi, phải nguyền rủa nó cho bõ ghét chứ! Đàng này Chúa Giêsu lại rất từ tốn, khoan dung, tha thứ và chấp nhận tất cả những bất toàn và yếu đuối của họ, hơn thế nữa, Ngài còn yêu thương họ cho đến cùng nữa mới lạ chứ! (Jn 13:1).

Chưa hết! Ngài còn thiết lập Bí Tích Thánh Thể, rồi sau đó trao cho những con người yếu hèn ấy thiên chức linh mục để với năng quyền ấy, họ sẽ cử hành Thánh Lễ để tưởng nhớ đến Ngài cho đến ngày tận thế nữa! “Trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy … Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy (1 Cor 11:23-25).

Như vậy, nếu bạn nghĩ rằng “Phải là những người hoàn thiện, đạo đức và giỏi giang thì mới có thể đi tu, mới được Thiên Chúa chọn trở thành linh mục” thì bạn lầm to rồi! Bạn cứ đi hỏi thử các linh mục và các nam nữ tu sĩ, (những người mà bạn nghĩ là họ tài giỏi, thông minh xuất chúng…) thử mà xem! Hỏi rằng khi bắt đầu bước vào đời tu, có phải họ là những người thánh thiện, đạo đức, tài giỏi và nổi tiếng không? Hay là họ chỉ là những kẻ yếu kém. .. hèn mạt không đáng kể. .. không có [tài cán gì]” (1 Cor 1:26-28).

Thật vậy! Bạn không nghe thánh Phaolô nói sao? “Thưa anh chị em, anh chị em thử nghĩ lại xem: khi anh chị em được Chúa kêu gọi, thì trong anh chị em. .. có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời,. ..có mấy người quyền thế, mấy người quý phái?” (1 Cor 1:26).

nếu. .. Nếu bạn có trong đầu óc của bạn một thần tượng mà thần tượng ấy lại là một giám mục, hay một đức ông, hay một linh mục nào đó thì quả thật quả thật, tôi báo cho bạn hay, bạn dại dột quá! Bạn hãy loại bỏ ngay những thần tượng ấy ra khỏi tâm trí của bạn đi! Chớ có dại mà lưu giữ những thần tượng ấy trong lòng bạn bởi vì không sớm thì muộn, ngay sau khi bạn phát hiện ra những khiếm khuyết, yếu đuối và những sự dơ dáy, tội lỗi của họ thì lúc đó những thần tượng này sẽ sụp đổ tan tành ngay cho mà xem! Ngoài Thiên Chúa và các Thánh ra, bạn đừng để cho bất cứ giám mục hay linh mục nào trở thành thần tượng của bạn bởi vì tất cả họ chỉ là những tạo vật thấp hèn, là những người tội lỗi. .. Bằng chứng là “mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của họ, sau là để đền tội thay cho [dân của Chúa]” (Dt. 7:27).

Còn nữa! Bạn đã có khi nào rơi vào tình trạng thất vọng, chán nản và thậm chí mất cả niềm tin vào Thiên Chúa chỉ vì một giám mục hay một linh mục thiếu đức độ, thiếu nhân bản, kém thánh thiện và thiếu bác ái. .. hay không? Nếu YES, thì bạn đã phạm phải một sai lầm lớn nữa rồi! Thật đấy!

Bạn không nhận thấy cái kiểu tuyển chọn môn đệ kỳ lạ của Chúa Giêsu sao? Từ sau cái bữa Tiệc Ly ở trên gác cho đến nay đã hơn hai mươi thế kỷ, Ngài vẫn cứ cái kiểu tuyển lựa cổ lỗ sĩ ấy không có chút gì thay đổi.

Ngài chủ động gọi và chọn những con người bất xứng, yếu đuối, và tội lỗi xấu xa cùng mình ở khắp mọi nơi trên thế giới làm linh mục của Ngài. “Không phải các con đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con” (Jn 15:16).

Ngài chuyên môn gọi và chọn những con người yếu kém, bất tài, hèn mạt và vô duyên để hạ nhục những kẻ khôn ngoan … để hạ nhục những kẻ hùng mạnh… hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người (1 Cor. 1:27-29).

Gần gũi những người tội lỗi và yếu đuối, rồi còn tuyển chọn họ làm môn đệ có lẽ là cố tật không thể bỏ được của Chúa Giêsu. Đã rất nhiều lần mấy ông Biệt Phái chỉ trích, càm ràm và lên án rồi chứ đâu phải không! Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn tính nào tật ấy không bao giờ xa lìa những người tội lỗi và yếu đuối được. Vì thế cho nên nếu bạn thất vọng, chán nản, mất niềm tin vào Thiên Chúa bởi vì những vị linh mục hay giám mục sa ngã, yếu đuối và bất xứng thì có phải là bạn mắc phải một sai lầm lớn không? Lớn quá đi chứ lại!

Ngày thứ Năm Tuần Thánh, ngày kỷ niệm Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và chức Linh Mục (The Sacraments of Eucharist & Holy Order), tôi hy vọng bạn sẽ nhận ra sự liên hệ chặt chẽ và hỗ tương giữa hai bí tích Thánh Thể và Truyền Chức Thánh, như Đức Cố Giáo Hoàng John Paul II nhận định: “Sẽ không có bí tích Thánh Thể nếu không có chức linh mục, cũng như sẽ không có chức linh mục nếu không có bí tích Thánh Thể” (Gift and Mystery: On the Fiftieth Anniversary of My Priestly Ordination, New York, 1996, pp.77-78).

Thiên Chúa khôn ngoan và quyền năng vô cùng! Ngài biết rõ Ngài đang làm gì, tuyển chọn ai và Ngài có toàn quyền tự do trong việc chọn lựa các linh mục của Ngài. Vì thế khi bạn và tôi mục kích hay chỉ nghe nói về một linh mục nào đó yếu đuối, sa ngã hay biến chất thì tôi đề nghị chúng mình nên giúp đỡ linh mục ấy bằng cách:

Cầu nguyện ngay lập tức cho ngài: “Lạy Chúa xin thương đến ngài và giúp ngài sống xứng đáng với thiên chức linh mục mà Chúa trao phó!”

Làm những việc hy sinh, hãm mình với ý chỉ cầu nguyện cho ngài được nhận ra khuyết điểm, sửa đổi và sống thánh thiện hơn.

Và tôi xin đề nghị thêm một điều, xin bạn đừng bao giờ tham gia vào những cuộc bàn luận, xì xèo nhỏ to, thêm mắm thêm muối hay loan đi những chuyện giật gân về những hành vi không đúng, không hay của các linh mục (mà chưa chắc là đã có thật). Thay vào đó, nếu bạn thực tâm yêu mến Chúa và quý trọng chức linh mục thì tôi đề nghị bạn hãy đến gặp trực tiếp vị linh mục ấy để xây dựng và góp ý với ngài.

Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi [cầu nguyện, làm việc hy sinh, tha thứ và chịu đựng những bất toàn và yếu đuối của các linh mục]của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy!” (Mt 25:40). Bạn có muốn nghe Chúa Giêsu nói với bạn một cách trìu mến như vậy không? Tuỳ bạn đấy!

 

37. Giải Nghĩa Yêu-- Ga 13, 1-15-- Lm Inhaxiô Trần Ngà

Người ta đề cập rất nhiều về tình yêu, thường nghiên cứu, phân tích tình yêu dưới nhiều góc độ, tốn rất nhiều giấy mực, để lý giải tình yêu... nhưng có lẽ rất ít người hiểu cho đúng tình yêu là gì.

Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu, người được xem là nhà thơ của tình yêu, có những cảm nhận rất tinh tế về tình yêu và tâm lý con người, nhưng cũng thú nhận là không thể giải nghĩa được tình yêu. Ông viết:

"Làm sao giải nghĩa được tình yêu

nghĩa gì đâu, một buổi chiều

chiếm hồn ta bằng nắng nhạt..."

khi con người không lý giải được tình yêu thì có lẽ phải viện tới Trời. Vì thế, Hàn Mặc Tử, một nhà thơ công giáo trứ danh, khuyên chúng ta - trong bài "Ðà Lạt trăng mờ" - như sau:

"Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,

Ðể nghe dưới đáy, nước hồ reo

Ðể nghe tơ liễu run trong gió

để xem Trời giải nghĩa yêu."

"Và để xem Trời giải nghĩa yêu!" Ðúng vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu là phẩm chất của Thiên Chúa nên chỉ có Thiên Chúa mới biết thế nào là yêu và chỉ có Ngài mới có đủ thẩm quyền để "giải nghĩa yêu".

Chúa Giê-su "giải nghĩa yêu" khi Ngài ngỏ lời với ông Nicôđêmô biết: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).

Chúa Giê-su cũng đã "giải nghĩa yêu" khi Ngài nói: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình." (Ga 15, 13)

Thế là ý nghĩa của tình yêu giờ đây đã được sáng tỏ: yêu thương là trao ban, là hy sinh, là cống hiến, là cho đi... Thiên Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã trao ban Người Con Một cho thế gian; Chúa Giê-su đã yêu thương thế gian nên Ngài đã hy sinh tính mạng cho thế gian.

Nhưng Chúa Giê-su không chỉ giải nghĩa yêu bằng những lời hoa mĩ. Ngài thể hiện lòng yêu thương qua cuộc sống. Tin Mừng hôm nay cho biết rằng: "Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng... Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn thắt lưng. Rồi Ðức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau." (Ga 13, 1.4-5).

Thế mới hiểu rằng:

Yêu là hạ mình làm tôi tớ người khác, là "đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau."

Yêu là bẻ thân mình làm bánh trao ban cho bạn: "Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con".

Yêu là rót máu mình như rượu hiến ban cho người khác được sống còn: "Nầy là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội".

Yêu là nộp mình chết thay cho người mình yêu thương được sống: "Thà một người chết thay cho dân còn hơn là để toàn dân phải bị tiêu diệt" (Ga 11, 50).

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giê-su,

Thế ra lâu nay chúng con đã ngộ nhận rất nhiều về tình yêu.

Chúng con ngỡ rằng yêu là say mê, là khai thác, là chiếm đoạt đối tượng mình yêu mến.

Hôm nay, nhờ bài học yêu thương Chúa dạy,

chúng con mới hiểu rằng tình yêu đúng nghĩa là hy sinh,

là quên mình để phục vụ, là cống hiến không ngừng cho tha nhân được hạnh phúc;

và câu tỏ tình hay nhất, chân thật nhất, ý nghĩa nhất trên cõi đời nầy là:

"Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con...

Nầy là chén Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội..."

Và hôm nay, khi mời gọi "các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy",

Chúa tha thiết kêu mời chúng con hãy sống yêu thương theo cách yêu thương của Chúa;

Chúa muốn chúng con nói lời yêu thương theo cách thức Chúa đã tỏ bày, nghĩa là:

"Nầy là thời giờ của tôi, sức lực tôi, tim óc tôi, xin hy sinh vì bạn.

Nầy là thân xác tôi, trọn cuộc sống tôi,

xin cống hiến cho cha mẹ, cho người bạn đời, cho con cái và cho tha nhân."

mục lục

 

38. Ý nghĩa ngày Thứ Năm Tuần Thánh

(https://nhathothaiha.net/y-nghia-ngay-thu-nam-tuan-thanh/)

Trước hành động quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ của Đức Giêsu, Phêrô đã không hiểu nên sửng sốt hỏi Đức Giêsu “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?”. Và có lẽ chúng ta cũng chỉ có thể hiểu chút nào câu thắc mắc của Phêrô, khi Đức Giêsu trả lời Phêrô “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” Vậy đâu là giáo huấn Đức Giêsu muốn dạy qua việc Người rửa chân cho các môn đệ?

Để có thể hiểu giáo huấn của Đức Giêsu, chúng ta cần phải trở về với bản văn chú giải Tin mừng. Khi nghe từ “chú giải” ta cứ hay mường tượng đến việc phải nghiên cứu, phải truy tìm, nên khiến ta có tâm lý không muốn nghe, không muốn đón nhận, vì cho rằng nó liên quan đến chữ nghĩa, đến việc nghiên cứu cao siêu. Thực ra không phải thế. Đơn giản ta hiểu “chú giải” ở đây chỉ là cách giải thích ý nghĩa một từ nào đó, hay một cụm từ nào đó mà người nói nói theo kiểu văn chương, nói theo kiểu ám chỉ, hay theo truyền thống xa xưa mà nhiều khi ta không biết không hiểu. Vì thế, chú giải là giải thích ra theo ngôn ngữ bình dân cho dễ hiểu. Đơn giản thế thôi.

Trước hết, ta cần trở về với việc “rửa chân”. Theo một số nhà chú giải Kinh Thánh “rửa chân” là việc của người tôi tớ đối với ông chủ. Tôi tớ phải rửa chân cho ông chủ, chứ không đời nào ông chủ rửa chân cho tôi tớ. Đàng khác, theo truyền thông Do thái thì không đầy tớ nào phải rửa chân cho đầy tớ khác. Nói cách khác, rửa chân là công việc của kẻ dưới với người cấp trên. Phêrô rất hiểu truyền thống này. Vì thế, khi Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ thì Phêrô sửng sốt. Bởi vì việc rửa chân lẽ ra phải là việc của ông đối với Chúa, đàng này Chúa lại rửa chân cho các ông, và Chúa đã rửa chân cho mấy ông rồi, bây giờ đến lượt Phêrô phải giơ chân ra cho Chúa rửa. Không thể có chuyện ngược đời như vậy, nên Phêrô nhất quyết không để Chúa rửa chân cho ông. Phêrô lại càng không hiểu khi mà trong nhóm mười hai đang có sự tranh giành xem ai là người lớn nhất.

Phêrô đã làm một việc rất đúng xét theo truyền thống. Nhưng đối với nhiệm cục, đối với chương trình cứu độ của Thiên Chúa thì khác. Phêrô không biết rằng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa thì người phục vụ lớn hơn người được phục vụ. Nên Đức Giêsu nói với Phêrô “Sau này anh sẽ hiểu.” Đang khi Phêrô còn chưa hiểu hết hành động rửa chân của Chúa, ngay cả khi ông xin Chúa rửa cả người ông, thì ông đã bị Đức Giêsu hỏi thẳng vấn đề “Anh em có hiểu việc Thầy làm cho anh em không?” Câu hỏi của Đức Giêsu không có ý tạo ra sự bối rối cho các môn đệ, nhưng dường như Người muốn cho các ông nhớ lại những điều Người đã rao giảng cho các ông về tư cách của người làm lớn. Có lần Đức Giêsu đã nói với các ông “Thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân…”, “Còn anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.” (Mt 20,25-27). Và Người còn cho biết thêm “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20,28).

Qua câu hỏi, Đức Giêsu đã hướng các môn đệ vào lời rao giảng của Người. Người cho các ông thấy rằng việc các ông gọi Người là Thầy, là Chúa thì thật đúng. Bởi vì chính Đức Giêsu đã xác nhận điều này khi Người nói “Anh em gọi Thầy là ‘ Thầy ‘, là ‘ Chúa ‘, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa.” Mà nếu Người là Thầy là Chúa mà còn hạ mình phục vụ như một đầy tớ, thì chính các môn đệ cũng phải sẵn lòng mà phục vụ nhau. Các môn đệ hãy bắt chước Đức Giêsu mà khiêm hạ phục vụ. Phục vụ một cách hy sinh, phục vụ một cách quên mình.

Bài học Đức Giêsu dạy các môn đệ cũng là bài học cho mỗi người chúng ta. Ngày nay người ta đang đặt vấn đề về nhân vị. Quả vậy, trước một xã hội mà chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa hưởng thụ, nghĩa là tất cả đều quy về cái tôi cá nhân, điều mà Stephen Hawking đã nói con người là cái rốn của vũ trụ. Vì thế, tinh thần phục vụ đang bị thử thách. Thay vào đó, người ta tìm cách thống trị người khác. Vợ chồng thống trị nhau. Con cái chống lại cha mẹ, bởi vì cha mẹ không thỏa mãn được những yêu sách của chúng. Mọi người đều muốn người khác phục vụ mình.

Thế nhưng, là những Kitô hữu, chúng ta mặc lấy Chúa Kitô, chúng ta đi theo Chúa Kitô. Theo Chúa không phải chỉ là chuyện Người đi hướng nào ta đi hướng đó, nhưng còn là đón lấy những cách sống mà Người đã sống, những bài học mà Người đã học. Vì vậy, ai muốn thống trị người khác, muốn làm đầu người khác, thì hãy phục vụ, hãy khiêm nhường. Phục vụ như Đức Giêsu, không phân biệt người giàu kẻ nghèo, người tội lỗi hay kẻ hiền lành. Chính Đức Giêsu đã rửa chân cho cả Giuđa dù biết Giuđa sẽ phản bội. Chồng muốn làm chủ gia đình, làm chủ vợ, hãy âm thầm, nhẫn nại, khiêm tốn làm việc vì niềm hạnh phúc của vợ và của con cái. Vợ cũng vậy, muốn thu phục, muốn chinh phục chồng, hãy khiêm nhường phục vụ chồng với lòng kính trọng, hãy bớt nói nhiều, nhưng nết na và vui vẻ làm việc để chồng bớt gánh nặng gánh vác gia đình. Làm như vậy, chắc chắn chồng sẽ rất hạnh phúc và yêu thương vợ.

Mặt khác, phục vụ còn có nghĩa tẩy xóa tội lỗi của ta. Có lẽ chúng ta cũng như Phêrô. Chúng ta đã được rửa tội rồi, nhưng bản tính con người vẫn còn đó, nên chúng ta vẫn còn phạm tội. Vậy mà, việc phục vụ của chúng ta có thể che giấu những tội lỗi của ta trước mặt Chúa. Hay nói cách khác, hành vi phục vụ của ta, có thể tẩy xóa những lỗi lầm ta phạm. Nếu Phêrô được Chúa rửa để ông trở nên sạch, thì việc phục vụ của ta cũng giúp ta nên sạch. Lạy Chúa, xin thêm sức để chúng con có một tinh thần phục vụ vì yêu thương. Và khi chúng con phục vụ, xin Chúa thứ tha những tội lỗi chúng con. Amen.

Gợi ý chia sẻ: khi anh chị bố thí, hay giúp ai việc gì, anh chị thường nghĩ việc làm đó có ý nghĩa gì?

mục lục

 

39. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thày--Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa

Trong bữa ăn cuối cùng tại trần gian, Chúa Giêsu khởi xướng một sáng kiến để nối kết cuộc đời Ngài với các tông đồ: Thiết lập bí tích Thánh Thể và rửa chân cho các ông.

“Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.  Bí tích Thánh Thể là thông hiệp với Chúa Giêsu có nghĩa là lắng nghe Lời Ngài, ăn uống Thịt Máu Ngài và hành động theo gương Ngài. Dấu chỉ của Tình Yêu mà Chúa đã để lại trong bữa tiệc ly: Ăn uống Thịt Máu Ngài và Rửa Chân đều nhằm một mục đích: dâng hiến cuộc đời chúng ta để phục vụ anh chị em, mà trong đó ơn gọi của chúng ta là trở nên bí tích Thánh Thể cho anh chị em chúng ta. Cả hai yếu tố này lập nên cộng đoàn tông đồ Chúa Giêsu.

Rửa chân chính là một tấm gương để họ cũng sẽ làm như vậy. Ngài nói: “Để anh em cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho anh em”. Rửa chân chỉ là dấu chỉ và tượng trưng. Nhưng điều căn bản của ý nghĩa tượng trưng này là tinh thần phục vụ theo gương Thầy. Phục vụ anh em phải trở nên luật lệ trong cộng đoàn của họ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.

Thiếu một trong hai yếu tố thì cộng đoàn không thể đứng vững được. Rửa chân cho nhau, tức là phục vụ nhau, mở ra cho chúng ta hướng tới Bí tích Thánh Thể. Cử hành Bí tích Thánh Thể sẽ làm tăng thêm sức mạnh tình yêu huynh đệ xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa. Hiệp thông với Mình Máu Chúa Kitô mà không thực hiện tinh thần phuc vụ anh em theo gương Chúa Kitô thì cũng chỉ là hão huyền.

Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta như vậy. Và chúng ta hãy cố gắng thực hiện di chúc thiêng liêng của Ngài như thế!

Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại thái độ của Phêrô thế nào trước việc Chúa rửa chân cho các tông đồ: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con”. Chúng ta đã biết, hơn một lần, sau khi Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ phải chịu đau khổ thập giá, Phêrô phản đối…Và Chúa đã khiển trách ông. Tuy nhiên, sau khi Chúa giải thích và nói với Phêrô: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”, Phêrô đã chấp nhận để cho Chúa rửa chân.

Phản đối rửa chân và không tham dự Thánh lễ cũng là chống đối Giáo Hội, vì:

– Chống lại việc đón nhận mạc khải về một Thiên Chúa đặt căn bản là phục vụ con người.

– Chống lại việc Chúa Kitô nhập thể đụng chạm đến con người, tiếp xúc với con người.

– Chống lại việc chấp nhận tiếp đón Chúa Giêsu, Đấng đã hiến dâng mạng sống cho nhân loại trong mầu nhiệm vượt qua.

– Chống lại việc tùy thuộc vào Chúa Con như Chúa Con hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa Cha và là một ân huệ phục vụ tha nhân.

Chúng ta cũng không thể đón nhận Mình và Máu Chúa Kitô, nếu  không chấp nhận sự nhiệt tâm phục vụ Chúa Kitô. Chúa Giêsu thiết lập cộng đoàn tông đồ để họ hiệp thông với Ngài. Phục vụ nhau bằng tình yêu biếu không.

Hạnh phúc cho tất cả chúng ta, nếu chúng ta biết điều đó, là cử hành Bí tích Thánh Thể sốt sắng và phục vụ nhau trong tình yêu thương anh chị em vô vị lợi. Và như vậy, chúng ta sẽ dự phần vinh quang với Đức Kitô. Amen!

mục lục

 

40. Bánh không men--JB. Lam Thy

Đã bước vào Tuần Thánh, chuẩn bị cho cao điểm của Mùa Chay là Tam Nhật Vượt Qua. Mở đầu cho Tam Nhật Vượt Qua là Thứ Năm Tuần Thánh với Thánh lễ Tiệc Ly. Ba bài đọc trong Thánh lễ Tiệc Ly (chung cho cả chu kỳ ba năm Phụng vụ A-B-C) là: Xh 12, 1-8.11-14 (“Lễ Vượt Qua”); 1Cr 11, 23-26 (“Bí tích Thánh Thể”); Ga 13, 1-15 (“Bữa ăn cuối cùng của Đức Giê-su và các môn đệ”). Nói về Lễ Vượt Qua, cả 3 sách Tin Mừng (Mát-thêu, Mac-cô, Lu-ca) đều có nhắc đến việc “Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua”  (Mt 26, 17 -19; Mc 14, 12 -16; Lc 22, 7-13). Theo Thánh sử Lu-ca thì: “Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Đức Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: “Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua.” (Lc 22, 7-8). Như vậy lễ Bánh Không Men gắn liền với lễ Vượt Qua. Xin dựa vào Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia và Vatican.net để tìm hiểu vấn đề:

Lễ Vượt Qua của người Do-thái là ngày 14 tháng A-víb (khoảng tháng 3, tháng 4 dương lịch). Với thời gian này, một lễ khác có nguồn gốc riêng nhưng cùng được mừng chung trong mùa xuân và được sát nhập vào lễ Vượt Qua đó là lễ Bánh Không Men (Xh 12, 15-20). Trong tháng này, lễ Vượt Qua mừng ngày 14, còn lễ Bánh Không Men được ấn định từ ngày 15 đến ngày 21. Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men có khi được mừng chung với nhau (Đnl 16, 1-8; 2Sb 30, 1-13); nhưng cũng có khi được mừng riêng (Lv 23, 5-8). Truyền thống người Do-thái áp dụng lễ này vào dịp kỷ niệm ngày dân It-ra-en thoát ách nô lệ, ra khỏi Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, trở về Đất Hứa (“Ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men vào thời chỉ định trong tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong tháng đó ngươi đã ra khỏi Ai-cập. Người ta không được đi tay không đến trước nhan Ta.” – Xh 23, 15).

Theo định nghĩa của Thánh Kinh thì bánh không men được gọi là bánh khổ cực (“Anh em hãy giữ tháng A-víp và mừng lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, vì trong tháng A-víp, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã đưa anh em ra khỏi Ai-cập ban đêm. Anh em hãy giết chiên dê và bò làm lễ vật Vượt Qua dâng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, ở nơi ĐỨC CHÚA chọn cho Danh Người ngự. Anh em không được ăn bánh có men với lễ vật đó; trong vòng bảy ngày, anh em sẽ ăn bánh không men – thứ bánh khổ cực, vì anh em đã phải vội vã ra khỏi đất Ai-cập, để mọi ngày trong đời anh em, anh em nhớ ngày ra khỏi đất Ai-cập.” – Đnl 16, 1-4). Bánh không men cũng tiêu biểu cho sự tinh tuyền và chân thật (“Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” – 1Cr 5, 7-8).

Đó là ý nghĩa nguyên thủy của lễ Bánh Không Men. Khi Đức Giê-su cùng các môn đệ chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua thì cũng là dịp kỷ niệm tuần lễ Bánh Không Men. Cũng vì đây là bữa ăn cuối cùng Đức Ki-tô dùng bữa với các môn đệ trước khi chính thức bước vào cuộc Thương Khó trong hành trình Vượt Qua tội lỗi và cái chết để đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, nên Giáo hội tuyên xưng đây là bữa Tiệc Ly (nói nôm na là bữa tiệc chia tay giữa Chúa Ki-tô và các môn đệ). Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su thiết lập bí tích Thánh Thể và đó chính là Bánh Không Men Giáo hội dùng trong Thánh lễ, bởi Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác cho nên dùng loại bánh đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa tiệc Thánh Thể. Bộ Giáo Luật hiện hành của Giáo Hội “Codex Iuris Canonici” (số 926) đã qui định: “Theo truyền thống lâu đời của Giáo Hội La-tinh, khi cử hành Thánh Thể bất cứ ở đâu, tư tế phải dùng bánh không men.”

Cũng giống như vấn đề Ăn Chay cần phải biết “đừng xé áo nhưng hãy xé lòng”, vấn đề đặt ra đối với người Ki-tô hữu khi suy niệm về lễ Bánh Không Men chính là tìm hiểu mục đích và ý nghĩa tiềm ẩn sâu xa trong đó:

1- Ý nghĩa tiềm ẩn của lễ Bánh Không Men: Ngay từ Cựu Ước, Lễ Bánh Không Men là chỉ thị của Thiên Chúa để nhắc nhở dân It-ra-en phải luôn ghi nhớ hồng ân được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, vượt qua biển Đỏ trở về Đất Hứa; khi cử hành phải sát tế chiên Vượt Qua. Ngoài ý nghĩa dĩ vãng (Cựu Ước) đó, lễ Bánh Không Men còn tiềm ẩn dấu chỉ cho công cuộc cứu độ nhân loại trong tương lai (Tân Ước), nên phải công nhận một điều đây chính là nhiệm tích Thiên Chúa mạc khải cho con dân của Người. Và để thực hiện công trình cao vời khôn ví đó, Thiên Chúa đã sai Con Một xuống trần trong vai trò Con Chiên phải chịu sát tế để chuộc tội loài người và đem lại sự sống vĩnh cửu cho những kẻ tin. Lễ Bánh Không Men được thực hiện trong bữa Tiệc Ly trải dài trong Tam Nhật Vượt Qua với hy tế Thập Giá và mầu nhiệm Phục Sinh vinh hiển.

Kể từ bữa Tiệc Ly, Bánh Không Men chính là Thánh Thể – là Thịt và Máu Đức Giê-su –  là Bánh Hằng Sống (“Tôi là bánh trường sinh…Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống… Thật, tôi bảo thật: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, thì không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” – Ga 6, 48-58)

Như vậy lễ Bánh Không Men đã trở thành một dấu chỉ cho một đời sống mới, không bị tội lỗi thống trị. Trong 7 ngày thực hiện lễ Bánh Không Men thì phải hiểu số 7 là số tiêu biểu cho sự trọn vẹn về thuộc linh (Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người trong bảy ngày). Bảy ngày tiêu biểu cho trọn cuộc đời của một người đi theo Chúa. Ngày nào cũng là tiếp nhận sự sống thánh khiết từ Thiên Chúa qua đức tin và trong Đức Giê-su Ki-tô. Sự ăn Bánh Không Men tiêu biểu cho sự tiếp nhận chính sự thánh khiết của Chúa Giê-su vào trong đời sống của con dân Chúa.

2- Mục đích của việc cử hành Lễ Bánh Không Men: Thánh Kinh Tân Ước giúp cho người tín hữu hiểu rõ mục đích và ý nghĩa của lễ Bánh Không Men: “Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1Cr 5, 7-8); “Anh em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa.” (Dt 12, 14). Rõ ràng mục đích chính yếu của việc cử hành Lễ Bánh Không Men là để nhắc cho dân Chúa nhớ rằng, họ đã được giải thoát khỏi cuộc đời cũ nô lệ cho tội lỗi, và đã được Thiên Chúa dẫn vào cuộc đời mới, tự do trong thánh khiết, công chính, theo chân lý của Thiên Chúa. Trọn đời sống của họ phải luôn nên thánh, nếu không, họ sẽ không được Thiên Chúa tiếp nhận.

Tóm lại, người Ki-tô hữu cần phải nhìn lại mình để thấy được rằng con người sống trên đời thường bị các loại men tác động. Có thể kể ra những loại men đó như sau: men tôn giáo, men đạo đức giả, men tội lỗi.

* Men tôn giáo: Trước đây, đã 2 lần Đức Giê-su làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng đi theo Người. Sau đó, Người “bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh” (Mc 7, 31). Thánh sử Mat-thêu trình thuật về thời điểm này: “Khi sang bờ bên kia, các môn đệ quên đem bánh. Ðức Giê-su bảo các ông: “Anh em phải cẩn thận, phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc”. Các môn đệ nghĩ thầm rằng: “Tại chúng ta không đem bánh.” Nhưng, biết thế, Đức Giê-su nói: “Sao anh em lại nghĩ đến chuyện không có bánh, người đâu mà kém tin vậy? Anh em chưa hiểu ư? Tại sao anh em không hiểu rằng Thầy chẳng có ý nói về bánh, khi Thầy nói: Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc?” Bấy giờ các ông mới hiểu là Người không bảo phải coi chừng men bánh, mà phải coi chừng giáo lý Pha-ri-sêu và Xa-đốc.” (Mt 16, 5-12).

Đức Giê-su đã phân biệt rach ròi về “men” theo 2 nghĩa (nghĩa đen – nghĩa chiểu tự: men bột ; nghĩa bóng – nghĩa thiêng liêng: men tôn giáo – giáo lý), để dạy các môn đệ hiểu rõ về giáo lý sai lầm của bọn kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu (“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ…” – Mt 23, 23-25…). Điều đó cho thấy, cái men tôn giáo (là những giáo lý sai lầm) khi đã thấm nhập vào con người thì nguy hiểm như thế nào. Không chỉ ở thời điểm thượng cổ ấy, mà ngay trong thế giới hiện tại cũng không thiếu những thứ men tôn giáo vô cùng hiểm độc (khủng bố, đánh bom tự sát giết người hàng loạt sẽ được nên thánh tử vì đạo!!!)

* Men đạo đức giả: Tâm lý chung của con người luôn chuộng vẻ bề ngoài, thích mặc áo thầy tu hơn là cuộc sống đạo tu nhân tích đức. Họ đã quên mất một điều là: ”chiếc áo không làm nên thầy tu”. Tiêu biểu cho hạng người này là những kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu giả hình (“Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài.6 Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (Mt 23, 1-7).

* Men tội lỗi: Không chỉ có thánh Gio-an Tẩy Giả gọi bọn Pha-ri-sêu là rắn độc, mà ngay cả Đức Giê-su cũng gọi họ như vậy: “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục? Vì thế, này tôi sai ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng các người: các người sẽ giết và đóng đinh người này vào thập giá, đánh đòn người kia trong hội đường và lùng bắt họ từ thành này đến thành khác. Như vậy, máu của tất cả những người công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu các người, từ máu ông A-ben, người công chính, đến máu ông Da-ca-ri-a, con ông Be-réc-gia, mà các người đã giết giữa đền thánh và bàn thờ. Tôi bảo thật các người: tất cả những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này.” (Mt 23, 33-36). Điều đó cho thấy trong con người luôn có “cốt cách của một thánh nhân cũng như của một tên đại bợm” (ngạn ngữ Tây phương). Cái men tội lỗi không chừa bất cứ một ai, chỉ có điều người ta có nhận ra nó hay không và khi nhận ra có biết ăn năn hối cải hay không mà thôi.

Ý thức được vấn đề, người Ki-tô hữu không chỉ mỗi năm một lần dự lễ Bánh Không Men theo nghi thức, mà là, mỗi ngày hãy sống đúng tinh thần của lễ Bánh Không Men: Luôn luôn giữ mình thánh khiết theo chân lý sụ thật của Lời Chúa; thánh khiết từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm. Mỗi ngày từ bỏ chính mình, để hoàn toàn sống cho Chúa, sống vì Chúa, sống trong Chúa, sẵn sàng chịu khổ vì danh Chúa. Vui hưởng sự tự do thoát khỏi quyền lực và hậu quả của tội lỗi, không còn mang vác gánh nặng của tội lỗi. Mong chờ ngày Sa-bát phước hạnh sau cùng, là ngày rời khỏi thế gian này, được diện kiến tôn nhan chính Bánh Không Men Hằng Sống là Đức Giê-su Ki-tô. Đặc biệt hơn nữa là hãy liên lỉ cầu nguyện sao cho tới ngày Đấng Cứu Độ quang lâm lần thứ hai, sẽ được đứng ở bên phải Người. Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Chúa, trong bữa Tiệc Ly trọng đại, trước ngày tự hiến thân chịu khổ hình, Ðức Giê-su đã trối cho Hội Thánh một hy lễ mới muôn đời tồn tại làm bằng chứng tình thương của Người. Chiều nay, chúng con đến tham dự yến tiệc cực thánh, như lời Người truyền dạy, xin Chúa cho tất cả chúng con được tràn đầy tình yêu và sức sống viên mãn của Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển tri cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Thánh lễ Tiệc Ly)

mục lục

 

41. Tiệc ly, bữa tiệc cứu độ--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

lẽ trong đời mình, nhiều người trong chúng ta đã từng tổ chức các bữa tiệc khác nhau: tiệc cưới, tiệc giỗ, tiệc tân gia, tiệc sinh nhật, tiệc thôi nôi, tiệc đầy tháng, v.v… Còn đối với Chúa Giêsu, trong suốt cuộc đời dương thế của mình, Ngài chỉ “tổ chức” duy nhất một bữa tiệc, cũng là “tiệc chia tay” với các môn đệ dấu yêu trước khi Ngài đi vào cuộc thương khó, tử nạn. Bữa tiệc duy nhất này vẫn thường được gọi bằng cái tên rất dễ thương: Tiệc Ly. Tuy nhiên, đây không phải là bữa tiệc ly – tiệc chia tay thông thường, mà là bữa tiệc đặc biệt nhất, quan trọng nhất, và cũng gây nhiều cảm hứng nhất cho các nhà điêu khắc, hội họa trong lịch sử nhân loại. Vậy Tiệc Ly là bữa tiệc gì mà đặc biệt như thế?

*1. Tiệc Ly, trước hết, là bữa tiệc Vượt Qua. Chúa Giêsu đã khẳng định điều này: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em, trước khi chịu khổ hình” (Lc 26,15). Chúng ta biết Lễ Vượt Qua của người Do Thái bắt đầu vào tối Thứ Sáu. Nhưng Chúa Giêsu đã ăn tiệc Vượt Qua vào tối Thứ Năm, nghĩa là Ngài ăn lễ trước một ngày. Vì đêm Thứ Sáu và ngày Thứ Bảy, Chúa Giêsu đã chết và đang ở trong mộ đá. Và vì là tiệc Vượt Qua, nên Chúa Giêsu đã đích thân lên chương trình kỹ lưỡng: từ việc mượn phòng tiệc, sắp đặt các chỗ ngồi, chuẩn bị đồ ăn thức uống, rồi sai các môn đi chuẩn bị trước. Nhưng đây cũng là lễ Vượt Qua được “làm mới”. Mới ở chỗ: nếu trong lễ Vượt Qua thời Cựu Ước, máu chiên của cuộc vượt qua được bôi lên cửa nhà những người Do Thái, làm cho tai họa “bỏ qua” nhà họ và các con trai đầu lòng của họ thoát chết, thì trong bữa Tiệc Ly – lễ Vượt Qua mới, chính Chúa Giêsu đã trở thành Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Máu của Ngài – máu của Chiên Thiên Chúa sẽ giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết để được trường sinh trong Vương Quốc của Ngài.

*2. Tiệc Ly, thứ đến, còn là bữa Tiệc Thánh. Là bữa Tiệc Thánh vì tất cả những gì liên hệ đều thánh. Người chủ sự bữa tiệc hôm đó không phải là một người phàm, dù đó là người gia trưởng trong các gia đình Do Thái hoặc là Môisê hay Aaron đi nữa; chủ tiệc là Con Thiên Chúa, Đấng “ba lần thánh”. Cả đến đồ ăn thức uống của bữa tiệc đó, tức là bánh và rượu, cũng đã trở thành “của ăn của uống cực thánh” – Mình và Máu châu báu của Chúa. Điều đặc biệt hơn nữa: bữa Tiệc Thánh này sẽ được tiếp nối và kéo dài cho đến tận thế, và những người làm công việc tiếp nối này cũng được “thánh hiến” qua Bí tích Truyền Chức mà Ngài sẽ thiết lập ngay sau đó. Tất cả những gì “liên hệ” tới lễ Tiệc Ly này đều trở thành “thánh”: Thánh lễ, chén thánh, đĩa thánh, khăn thánh, Bánh Thánh, Máu Thánh…

*3. Sau nữa, Tiệc Ly còn là bữa tiệc yêu thương phục vụ. Thánh Gioan đã viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Ngài “yêu thương tất cả những kẻ thuộc về mình”, yêu thương cả Giuđa là kẻ nhẫn tâm phản bội Ngài; yêu thương cả Phêrô là kẻ vô tâm chối bỏ Ngài. Nhưng không phải là yêu thương một cách chung chung mà là yêu thương từng người, cũng không phải là yêu thương một cách hời hợt như ta thường thấy giữa thầy trò, mà là “yêu thương đến cùng”, yêu thương đến độ hiến mạng sống mình, biến thịt máu mình làm của ăn của uống nuôi sống linh hồn. Cử chỉ rửa chân là cử chỉ nói lên sự yêu thương phục vụ đúng nghĩa của nó: yêu thương thì không nề hà, yêu thương thì không tính toán, yêu thương thì không phân biệt đẳng cấp thứ bậc, chủ tớ…; yêu thương thì sẵn sàng quên mình đi để phục vụ.

Có khi nào chúng ta thấy trong một bữa tiệc mà Đức Giám Mục, hay Đức Giáo Hoàng đi lại phục vụ chén bát, phân phát đồ ăn thức uống, châm đá, hoặc bưng nước cho giáo dân rửa tay chưa? Có lẽ là chưa! Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã làm công việc phục vụ đó, nhưng không chỉ “bưng nước”, mà Ngài còn đích thân cúi xuống rửa chân cho từng người một. Ngài là vị Thiên Chúa mà dân Israel không dám gọi bằng tên, càng không dám tới gần. Nhưng nay Ngài đến thật gần với con người, và không những thế Ngài còn cúi xuống thật thấp trong cung cách là một người tôi tớ, người rốt hết, chứ không phải là một người chủ.. Đây là một cử chỉ nói lên cung cách phục vụ khiêm nhường thẳm sâu nhất của Ngài. Và Ngài cũng mời gọi các môn đệ của Ngài hãy yêu thương phụ vụ như Ngài đã nêu gương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương” (Ga 15,12); “Anh em cũng hãy rửa chân cho nhau”, nghĩa là “hãy phục vụ nhau như thế”!

Nếu người ta cám ơn thánh Luca vì ngài là vị thánh sử duy nhất đã ghi lại lời Chúa Giêsu dạy về dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-31), thì ta cũng phải biết ơn thánh Gioan vì ngài cũng là vị thánh sử duy nhất ghi lại biến cố vô cùng ý nghĩa xảy ra trước giờ phút Chúa chịu tử nạn, đó là biến cố Ngài rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,1-20).

Vì những yếu tố trên, Tiệc Ly trở thành bữa tiệc vô tiền khoáng hậu, bữa tiệc cứu độ.

Trong mỗi Thánh Lễ, trước khi rước lễ, linh mục đều nâng bánh rượu và xướng rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa Đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Là Kitô hữu, chúng ta thật diễm phúc vô cùng, vinh dự vô cùng vì hằng ngày chúng ta được Chúa mời tham dự bữa tiệc đặc biệt này. Hãy dâng lời tạ ơn Chúa luôn. Và một trong những cách thế tạ ơn tốt nhất, thiết nghĩ, đó chính là nỗ lực để “thực thi tình yêu và lòng thương xót” đối với anh chị em đồng loại như Chúa đã nêu gương.

Tất nhiên, Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã rửa chân được cho bao nhiêu người, nhưng Chúa sẽ hỏi đôi bàn tay chúng ta đã giúp đỡ sẻ chia cho được những ai! Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã hôn được bao nhiêu bàn chân, nhưng Chúa sẽ hỏi môi miệng chúng ta đã làm cho bao nhiêu người được an vui hạnh phúc. Chúa không muốn chúng ta trở thành những người thợ làm thuê (rửa chân – hôn chân thuê), những robot, người máy của thời hiện đại, nhưng muốn chúng ta thực sự trở thành những con trai con gái của một vị Thiên Chúa yêu thương, yêu thương đến cùng bằng nỗ lực thực hành giới luật yêu thương mà Chúa đã dạy (x. Tình Chúa – Tình Người, Lm. Giuse Dương Hữu Tình).

Cụ thể đó là ta đã cúi xuống để có thể lắng nghe và cảm thông với những đau khổ và nhọc nhằn của anh chị em đồng loại hay chưa? Ta đã cúi xuống để phục vụ cha mẹ già trong gia đình, gia tộc mình, bằng sự yêu thương kính trọng hay chưa? Ta đã cúi xuống để yêu thương và phục vụ chồng của mình, vợ của mình, con cái của mình bằng sự hy sinh trao hiến chưa? Ta đã quan tâm đến hàng xóm láng giềng, là những người sống bên cạnh chúng ta nhiều hơn chưa?

Dĩ nhiên để có thể yêu thương theo cung cách của Chúa yêu là không dễ chút nào. Cần phải có ơn Chúa trợ giúp. Bí tích Thánh Thể chính là nguồn trợ lực vô cùng cần thiết.

Vậy xin cho mỗi người chúng ta biết năng tham dự Thánh lễ và tiếp nhận Thánh Thể Chúa mỗi ngày, nhờ đó ta có thêm sức mạnh để thực thi giới luật yêu thương đối với anh em mình như Chúa dạy, và để nhờ đó mà ta có được sự sống đời đời mai sau. Amen.

mục lục

 

42. Ở lại trong tình yêu của Thầy--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

lần Chúa Giêsu nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.  Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9-10). Khi mời gọi chúng ta hãy ở lại trong tình thương của Người, Chúa Giêsu, qua cuộc sống trần thế, đã chứng tỏ lòng yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Chúa Cha đã dành cho Người.

Tình yêu mạnh mẽ ấy đã khiến Chúa vui hiến thân làm giá cứu chuộc loài người. Tình yêu ấy thúc đẩy Chúa để lại cho trần thế Kho Báu muôn đời cần thiết cho loài người: bí tích Thánh Thể.

Khai mạc Tam nhật Thánh, chúng ta cử hành và tưởng niệm việc Chúa hiến mình đến muôn đời để ở lại với chúng ta nơi bí tích Thánh Thể, là chúng ta cử hành và nhắc nhở nhau về một tình yêu vô song. Đó là một tình yêu dữ dội, một tình yêu trào tràn, một tình yêu ngút ngàn. Đó là một tình yêu muôn đời không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu, ngoài Thiên Chúa.

Bản chất của tình thương yêu nơi cung lòng Thiên Chúa là thế: một khi đã thông truyền, nó sẽ thông truyền trọn vẹn, không kém bớt, không tiêu hao, không sứt mẻ, không giảm suy. Nó là một công thức luôn luôn: “thế nào… thế ấy”. Được yêu thế nào, sẽ yêu thế ấy.

Tình yêu thương của Chúa Cha truyền sang Chúa Con là tình yêu của Đấng Toàn Năng thể hiện mình. Người là Thiên Chúa cuồn cuộn trong sự thủy chung, giàu có trong sự trao ban, trào tràn trong sự hiến dâng, bền bỉ trong sự giải cứu, sẵn sàng trong sự đón nhận, lớn lao trong sự tha thứ, cao cả trong sự chở che, mạnh mẽ trong sự phục hồi…

Đến lượt Chúa Con, sau khi nhận lãnh tình yêu của Chúa Cha, lại tiếp tục truyền sang chúng ta. Người yêu chúng ta bằng một tình yêu tròn đầy từ muôn đời cho đến muôn đời, luân chảy từ Chúa Cha đến chúng ta; một tình yêu không bao giờ có thể sánh ví, một tình yêu núi không thể đo, biển không thể dò.

Bởi vậy, Chúa Giêsu khẳng định về tình yêu của Người: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Gioan 15,9).

Bởi tình yêu của Thiên Chúa là môi sinh che chở chúng ta đẹp đến vậy, cho nên tình yêu ấy trở thành nguồn hạnh phúc vô cùng cho những ai biết ở lại trong nó.

Chúa Giêsu biết chúng ta cần tình yêu ấy, Chúa Giêsu biết chúng ta trông ngóng tình yêu ấy, Chúa Giêsu biết chúng ta không thể thiếu tình yêu ấy, vì thế, ngay sau lời dạy “hãy ở trong tình yêu của Thầy”, Chúa dạy ta cách thức để giữ mãi tình yêu ấy: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”(Ga 15, 11).

Lắng nghe Chúa Giêsu dạy, Ta phấn đấu mỗi ngày một nhiều hơn để sống giới răn của Chúa, sống hoàn hảo nhất Lời Chúa dạy. Bởi chỉ có phương thế ấy, ta mới có thể trọn vẹn chiếm lấy tình thương yêu của Thiên Chúa.

Ta hãy đến lãnh nhận Mình và Máu Thánh của Chúa. Khi thông hiệp với Chúa rồi, ta giữ lấy tình yêu của Chúa mà sống trong đời, để mọi nơi, mọi lúc, ta chứng tỏ cho đời, nơi cuộc sống của mình là chính tình yêu vô cùng của Thiên Chúa từ bi đại lượng.

Hãy nỗ lực bằng khả năng trao ban tình thương mà bản thân đã được Chúa dành cho mình, để ta luôn có Chúa Giêsu nơi tâm hồn mình. Và vì có Chúa Giêsu, ta cũng sẽ trọn vẹn sống trong Thiên Chúa.

Hãy hoàn hảo hóa giới răn của Chúa nơi đời sống bản thân mình, để ta nên một trong Chúa Cha và Chúa Con nhờ tình yêu chan chứa của Chúa Cha và Chúa con.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống giới răn Chúa, để chúng con luôn biết giữ mãi tình yêu của Chúa nơi tâm hồn và nơi cuộc đời chúng con. MỘt khi giữ trọn tình yêu Chúa, chúng con hy vọng, mãi muôn đời chúng con sẽ ở lại trong tình yêu của Chúa, như Chúa ở lại trong tình yêu của Chúa Cha. Amen.

mục lục

 

43. Yêu thương đến cùng--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Tông đồ Gio-an khảng định: giờ Đức Giê-su ra đi chịu chết chính là đỉnh điểm (kairos) của đời sống Con Người (xem Ga chương 12 câu 27-34). Đó là thời điểm và cách thức mà Giê-su – Cứu Chúa có thể diễn đạt tình yêu của Thiên Chúa cách trọn vẹn nhất; “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”. Tình yêu đó sẽ ôm ấp mọi con người, không loại trừ bất cứ ai, trong trường hợp cụ thể lúc đó kể cả Giu-đa lẫn Phê-rô, những kẻ đang rắp tâm phản bội hoặc yếu đuối bội phản Thầy. Tình yêu Thiên Chúa bao dung và rộng mở không biên giới; nhưng vấn đề chính ở đây là liệu người ta có sẵn lòng đón nhận tình yêu đó hay không. Vấn đề này về mặt lý thuyết xem ra rất đơn giản, nhưng trên thực tế lại không dễ dàng được chấp nhận. Câu chuyện Gio-an tường thuật là một minh họa rất rõ nét: trước khi lên đường đi chịu chết Đức Giê-su đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ Người. Điều gì đã xẩy ra vào buổi chiều hôm đó cũng có thể xảy ra cho bất kỳ ai, ở bất cứ đâu và vào bất cứ thời đại nào.

Trong tấn kịch này, vai diễn của Phê-rô có phần nổi trội hơn tất cả. Phản ứng của ông có thể là hoàn toàn tư riêng, nhưng chắc chắn nó cũng biểu lộ thái độ chung mà nhiều môn đệ khác cùng chia sẻ: “Thầy mà lại rửa chân cho con sao?… Không đời nào con chịu đâu!” Phản ứng này xem ra hoàn toàn hợp lý: làm sao người môn đệ có thể để ông thầy cúi xuống rửa chân cho mình? Nếu Đức Giê-su không nài ép, “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”, thì có lẽ Phê-rô sẽ chẳng bao giờ chịu chấp nhận, và các môn đệ khác cũng không nốt.

Thế đấy! Tin và chấp nhận một Thiên Chúa khiêm hạ tới độ hủy mình ra như không, chỉ vì yêu thương tôi, một con người tội lỗi thấp hèn, là không dễ chút nào. Tôi dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa uy nghi cao cả đòi buộc tôi phải giữ phải tránh điều này điều nọ, một Thiên Chúa phán truyền mệnh lệnh, một Thiên Chúa thưởng phạt công minh…, nói chung một Thiên Chúa bề trên, kẻ cả; nhưng tôi lại thấy thật không thể chấp nhận nổi một Thiên Chúa đặt mình dưới cả tôi, cúi xuống trở nên thấp hèn hơn tôi, và sẵn sàng bị tước đoạt đi tất cả…, một Thiên Chúa kèo dưới… chỉ để yêu thương tôi. Tôi luôn có khuynh hướng tôn thờ, kính sợ Thiên Chúa, nhưng lại rất ái ngại đi sâu hơn nữa vào ‘lòng thương xót đến cùng’ của Người. Xét cho cùng thì tôi vẫn thấy ‘thái độ kính sợ Đức Chúa’ của Cựu Ước nói riêng, và của mọi tôn giáo nói chung, dễ chấp nhận hơn là tinh thần tự hủy của Tân Ước, như Đức Ki-tô Giê-su đã từng thể hiện trên thập giá. Thiết tưởng đây chính là ‘cớ vấp phạm’ lớn nhất của thập giá Đức Ki-tô mà Phao-lô đã đề cập tới, đặc biệt đối với những ai xưng mình là Ki-tô hữu (= người có đạo), là môn đệ (= linh mục tu sĩ) qua mọi thời.

Thế nhưng, đối với Đức Ki-tô, thì ‘cớ vấp phạm” ấy lại là một điều kiện tiên quyết (sine qua non), vì “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”. Câu này là một khảng định chắc nịch chứ không chỉ là một lời mời gọi chung chung, một lời khuyên… không thi hành cũng được. Và ‘chung phần với Thầy’ chính là tham gia vào cái thứ tình yêu độc nhất vô nhị mà chỉ một mình Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su thập giá mới có, tức là yêu thương đến cùng, là yêu tới độ hủy mình ra như không, đặt mình vào chỗ thấp nhất trong thiên hạ hầu có thể trao ban và phục vụ.

Thiết nghĩ ít ai trong chúng ta đã không vấp phạm về điều này ít là một lần trong đời. Lấy một thí dụ nhỏ, có mấy ai trong chúng ta nghĩ rằng: các việc bác ái mình làm nhiều khi thật nông cạn và chẳng Tin Mừng tí nào không? Bao lâu ta còn chưa chịu để cho Chúa ‘rửa chân’ cho, bấy lâu ta còn thi hành một thứ bác ái trịch thượng của bậc kẻ cả, phục vụ đấy mà trên thế thượng phong ban phát. Riêng với các linh mục cảm nghiệm này còn phải cụ thể và thường xuyên hơn nữa; chẳng hạn, có bao giờ linh mục ngồi vào tòa giải tội trong tư thế mình còn thấp hèn hơn cả các hối nhân tới xưng tội, hoặc tiến ra cử hành Thánh Lễ mà cảm thấy Chúa đang cúi xuống rửa chân cho mình…, hoặc khi rước mình và máu thánh Chúa mà nghiệm thấy quá bất xứng vì  được Chúa biến thành miếng ăn nuôi sống con người tội lỗi và bất toàn như mình chăng? Nhiều lần khi cho rước lễ tôi đã tận mắt chứng kiến việc Chúa đi vào các môi miệng, được trao vào các bàn tay mà đôi khi chính bản thân mình còn cảm thấy rờn rợn? Thế đấy, chính vì ‘để Thày rửa chân cho’ thường xuyên bị lãng quên mà bác ái phục vụ rất ít khi thực sự là quên mình, là cúi xuống; Thánh Lễ lúc đó sẽ nặng về tính thờ phượng kính tôn hơn là “Người yêu thương đến cùng”, ‘Alter Christus’ mang nặng nội dung chức thánh địa vị hơn là ‘mục tử tự hiến’, “vào chung phần với Thầy” được cắt nghĩa là vào hưởng vinh quang thiên quốc hơn là tham dự vào tình yêu thập giá tự hủy của Đức Ki-tô, và còn nhiều điều khác nữa…

Bài học ‘rửa chân’ thật mấu chốt và quan trọng biết bao! Thế nhưng thật đáng tiếc nó thường bị coi (kể cả bởi các chủ tế cử hành) chỉ như một biểu tượng cá biệt hơn là diễn tả hoàn hảo một mạc khải về tình yêu trao hiến phục vụ đích thực. Tệ hơn nữa nó còn bị thu hẹp thành một nghi thức phụng vụ được cử hành trong Thánh Lễ ngày Thứ Năm Tuần Thánh… và sau đó là kết thúc luôn, không còn được thực thi cách cụ thể trong cuộc sống đức tin của cuộc sống thường ngày.

Lạy Chúa Giê-su khiêm hạ vì yêu thương, xin cho con biết để cho chính con được Chúa rửa chân cho mỗi khi tiến ra cử hành Thánh Lễ, để con cũng được ‘chung phần’ với yêu đến cùng của Thập Giá. Vinh quang thập giá chính là vinh quang của tự hủy phải được tỏ rạng nơi mọi linh mục của Chúa, bây giờ và luôn mãi. Xin cho con, trước khi dám ‘cùng chết với Chúa’, biết khiêm tốn chấp nhận để Chúa chết và tự hủy ra như không vì con và cho con. A-men. 

 

mục lục